In bài này
Chuyên mục: Phật pháp - Bs Khoáng
Lượt xem: 7276

CÓ CẦN CHUẨN BỊ CHO NGÀY RA ĐI CỦA CHÍNH MÌNH VÀ CỦA NGƯỜI THÂN KHÔNG?

 BS Nguyễn Quý Khoáng ( North Carolina, đầu Thu 2017)

 

I- MỞ ĐẦU

II- TẠI SAO PHẢI CHUẨN BỊ CÁI CHẾT ?

               A- ẢO TƯỞNG LỚN (Sogyal Rinpoche)

               B- CÁI CHẾT TỚI BẤT NGỜ

               C- TẠI SAO PHẢI CHUẨN BỊ CÁI CHẾT ?

III- KHI SỐNG, TA LÀ GÌ VÀ CHẾT CÓ PHẢI LÀ HẾT KHÔNG?

IV- KHI CHẾT, TA THẾ NÀO VÀ CÓ TÁI SINH KHÔNG?

 A- CHẾT LÀ GÌ ? 

1- CHẾT LÂM SÀNG (theo Y Học)

        2- CHẾT THẬT SỰ (theo Đạo Phật)

 B- CHẾT RỒI SẼ VỀ ĐÂU ?

                1- ĐỐI VỚI NGƯỜI KHÔNG TU

                2- ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ TU HÀNH

 C- ĐẠO PHẬT CÓ THỂ GIÚP GÌ CHO NGƯỜI SẮP LÌA ĐỜI ?

1- QUAN NIÊM SỐNG VÀ CHẾT THEO ĐẠO PHẬT 

                2- ĐẠO PHẬT CÓ THỂ GIÚP GÌ CHO NGƯỜI SẮP LÌA ĐỜI ?

 D- SỰ THAM GIA CỦA KHOA HỌC VỀ CÁI CHẾT

 1- KINH NGHIỆM CẬN TỬ (NDE=Near Death Experience)

                  2- LINH HỒN DƯỚI GÓC NHÌN CỦA KHOA HỌC

 3- TÁI SINH VÀ LUÂN HỒI

4- VÀI KINH NGHIỆM TRONG CÕI CHẾT

 E- CÁI GÌ THEO TA QUA KIẾP SAU?

 F- LỢI ÍCH CỦA VIỆC TÌM HIỂU CÁI CHẾT

V- CÁCH CHUẨN BỊ CHO NGÀY RA ĐI

VI – VÀI Ý KIẾN  BỔ SUNG TRƯỚC KHI KẾT

VII - KẾT LUẬN

 TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

Các từ khóa (Key words): Ngũ uẩn (ngũ ấm), A-lại-da thức (Tàng thức, Tạng thức, thức thứ 8), Thần thức ( Bardo, Thân trung ấm, Thân trung hữu), Cõi Trung giới (cõi trung ấm, cõi trung hữu), Kinh nghiệm cận tử (NDE= Near death experience), cận tử nghiệp, tái sinh, luân hồi, nghiệp lực, nghiệp báo, dòng tiếp nối liên tục của tâm thức (continuum of consciousness),

I-MỞ ĐẦU

Nghe đến tựa này chắc ai ai cũng lấy làm lạ vì sao tác giả lại đặt một câu hỏi lạ lùng vậy! Đang sống sờ sờ đây lại nói lên một chuyện bi quan, buồn bã như thế! Vậy, tôi xin phép kể lý do tại sao tôi lại soạn bài này.

Cuối năm 2011, vào tháng 10, tôi qua Montréal sống với ba tôi 3 tháng vì thấy ba tôi đã 92 tuổi và yếu hơn trước nhiều. Ba tôi nặng khoảng 90 kg, cao 1,72m, đi lại khó khăn, phải dùng đến “marchette” mà lỡ ngồi bệt xuống đất thì tự đứng dậy không được, phải cần vài thanh niên vạm vỡ xốc nách mới đứng lên được. Trước đó khoảng 20 năm, ba tôi ít bệnh tật, đi lại nhanh nhẹn đến nỗi con cháu đi theo cũng không kịp, hàng năm tự về Việt Nam 3 tháng vừa để ăn Tết, vừa để tránh cái rét ở Canada nhưng sau này thì “lực đã bất tòng tâm” rồi!

Thấy cha rồi nghĩ đến mình (lúc đó đã 62 tuổi). Tương lai không biết mình có thọ được như cụ không? Có người đã nói: “ Sống đến 60 là đủ vốn rồi, số năm sống thêm là do Tạo Hóa khuyến mãi (bonus)”. Ngày ra đi chắc chắn phải xẩy đến với mọi người và 2 tháng sau đó, ba tôi ra đi nhẹ nhàng tại bệnh viện Jacques Viger vì nhồi máu cơ tim (Myocardial infarction). Tôi đã bỏ ra 6 tháng để tìm hiểu về cái chết vì đây còn là điều bí ẩn cho tôi và cho rất nhiều người trên thế gian này. Nhờ các tài liệu về cái Chết trong các sách và trên Internet, năm 2012, tôi viết bài: TÌM HIỂU VỀ CÁI CHẾT. Đã 5 năm qua, tôi không ngừng suy nghĩ về vấn đề này, thực hành một số điều đã học được và tiếp tục soạn bài này với mục đích củng cố lại những hiểu biết của mình hầu giúp ích cho chính mình và cho những ai quan tâm.

Nói về cái Chết không hấp dẫn và không dễ dàng chút nào:

        Chính vì những lý do trên, tôi xin phép được sưu tầm những sách hoặc bài liên quan đến cái Chết từ những nhà tu hành, đặc biệt là từ các vị Lạt ma Tây Tạng cũng như từ các nhà khoa học rồi sắp xếp lại để quý vị đỡ mất thời gian nghiên cứu. Chắc chắn phần trình bày còn sót, rất mong sự góp ý của các bậc cao minh.

 Vậy chúng ta thử đặt và trả lời một số câu hỏi sau đây:

1/ Ai phải chết? Mọi người đều phải chết, không trừ bất kỳ ai.

2/ Tại sao phải chết? Vì có sinh thì phải có tử. Chúng ta phải chết bởi vì chúng ta được tạo ra từ sự kết hợp của nhiều thành phần, sự kết hợp ấy liên hệ đến một số nguyên nhân và điều kiện nào đó. Trong từng giây phút một, các kết hợp biến đổi không ngừng, suy thoái và hao mòn đến một lúc nào đó sẽ kết thúc bằng một hiện tượng mà người ta gọi là cái chết.

3/Khi nào chết? Bất kỳ lúc nào, thường không biết trước được, trừ trường hợp một số người có đời sống thánh thiện hoặc các vị chân tu đắc Đạo…

4/ Chết thế nào? Nhẹ nhàng hoặc khổ sở, từ từ hoặc đột ngột…

5/ Chết có phải là hết không? Không! như một ngạn ngữ Tây Tạng có ghi:Mọi người đều chết nhưng chẳng ai chết cả”. Trong lời tựa quyển “Sự sống sau cái chết” (Life after death) của Deepak Chopra, Eckhart Tolle, tác giả quyển “Quyền năng của Hiện tiền” (the Power of Now) có nói rằng: “Đối lập của cái Chết là sự Sinh chứ không phải là sự Sống. Sự Sống về bản chất là ý thức, là vĩnh hằng và không có đối lập. Không có cái chết, chỉ có những dạng khác nhau của các hình thái sự sống, biểu hiện ý thức thế này hay thế khác”. Khi nghĩ đến vấn đề này, tôi thích lấy ví dụ về mặt trời. Ai khi nghe nói mặt trời mọc ở phía Đông và lặn ở phía Tây thì thấy rất có lý. Thật ra đó là vì ta đứng trên mặt đất quan sát. Còn nếu chúng ta ở trong không gian và nhìn thì mặt trời không hề mọc và lặn mà là quả đất xoay quanh mặt trời và tạo ra cảm giác như có mọc và lặn.Ứng dụng vào con người, thì “mặt trời” ví cho “sự sống”, “Mọc” tượng trưng cho “sinh” còn “lặn” tượng trưng cho “chết’.” Như vậy, chúng ta thật sự đâu có chết mà sợ, chúng ta chỉ như thay một cái áo khác để tiếp tục sống trong kiếp sau và hoàn thiện chính bản thân mình.

 Trong thế giới hiện tượng này mà Đạo Phật gọi là Tục đế (Chân lý tương đối), tái sinh và luân hồi đối với người Phật giáo là một sự kiện hiển nhiên. Nếu không có sự tái sinh chi phối và tác động bởi quy luật nhân quả thì nhất định thế giới này phải là một thế giới bất công và phi lý. Có người không tin và đã chất vấn Đức Dalai Lama về vấn đề này, Ngài đặt câu hỏi lại rằng: “Nếu quý vị chứng minh cho tôi điều ngược lại, nghĩa là không hề có tái sinh và luân hồi (trong khi trên thực tế đã có rất nhiều trường hợp nhớ được tiền kiếp…) thì tôi mới tin rằng quý vị có lý”.

Mật Tông dựa vào các phương pháp quan sát, phân tích và nhất là thiền định để tìm hiểu các diễn biến của cả 3 quá trình này: quá trình của cái chết, giai đoạn trung gian và quá trình của sự tái sinh và hướng dẫn chúng ta vào việc chuẩn bị cái chết của chính mình và người thân của mình.

II- TẠI SAO PHẢI CHUẨN BỊ CÁI CHẾT ?

 A/ ẢO TƯỞNG LỚN (trích đoạn trong “Tử thư Sống Chết” của Sogyal Rinpoche do Ni sư Thích Trí Hải dịch):

 “Chẳng bao lâu, mục đích duy nhất của ta trên đời hóa ra chỉ là giữ cho mọi thứ ta sở hữu càng được bảo đảm an ninh càng tốt. Khi có biến chuyển gì xảy đến, ta tìm cách đối phó mau lẹ nhất, một giải pháp hữu hiệu tạm thời. Cứ thế, đời ta tiếp tục trôi giạt cho đến khi một cơn bệnh hay một tai nạn nào đó lay ta ra khỏi cơn mê… Ta phí một đời để theo đuổi những chuyện nhỏ nhen bởi vì dường như ta không biết có cái gì hơn thế… Mặc dù ta luôn luôn hô hào phải thực tế, thực tế ở phương Tây có nghĩa là thiển cận một cách vô minh và thường ích kỷ. Sự tập trung thiển cận của chúng ta vào đời này và chỉ đời này mà thôi, chính là một ảo tưởng lớn, nguồn gốc của nền duy vật đen tối và phá hoại của thế giới ngày nay. Không ai bàn tới sự chết và đời sau vì người ta có thói tin rằng chuyện ấy chỉ làm đình trệ cái gọi là sự “tiến bộ” của ta trên đời này.

Nhưng nếu ước muốn sâu xa nhất của chúng ta quả là sống và tiếp tục sống thì tại sao chúng ta lại quả quyết một cách mù quáng rằng chết là hết chứ? Ít nhất ta cũng nên thử thám hiểm xem có thể có đời sau hay không đã chứ ! Nếu quả thật chúng ta có óc thực nghiệm như ta từng tuyên bố thì tại sao ta không tự đặt câu hỏi cho mình một cách nghiêm túc: Tương lai thực sự của ta nằm ở đâu?”

B- CÁI CHẾT TỚI BẤT NGỜ Nhiều người như cố quên đi cái chết, cho cái chết là đáng sợ, không dám nhắc tới giống như con đà điểu, rúc đầu trong cát và tưởng người thợ săn không thấy nó. Cũng có người lại làm ra vẻ thản nhiên bất cần. Nhưng khi cái Chết đến gần họ thì sự lo âu khủng khiếp không còn làm họ thản nhiên nữa và khi đó, vì không có chuẩn bị trước nên sự ra đi của họ về thế giới bên kia lại chất chứa nhiều đau khổ và sai lầm.

Có người còn cho rằng chết là hết, là không còn gì nữa. Vì thế họ sống vội vã, cố hưởng được những gì họ có trong cuộc đời hiện tại chớ không cần nghĩ đến tương lai, hậu quả của đời sau ra sao. Nhưng nhân nào thì quả nấy và họ sẽ gặt được những gì họ gieo.

 C- TẠI SAO PHẢI CHUẨN BỊ CÁI CHẾT?

 Đức Dalai Lama nói rằng có một điều hay làm bận tâm tất cả chúng ta là làm cách nào để sống hạnh phúc và chết bình an. Để có thể thản nhiên nhìn thẳng vào sự sống và cái chết, phải khẳng định một phương hướng hành động để khi đối mặt với nó thì không mảy may sợ hãi. Đó là thái độ chúng ta cần chọn lựa và thể hiện trong cuộc sống bằng cách sống có mục đích, làm cho cuộc sống có ý nghĩa. Về cái Chết thì Ngài nói rằng: “Khi đi đâu xa, ta thường phải chuẩn bị hành trang thật đầy đủ thì các bạn có thấy thật lạ lùng không vì người ta thường không lo chuẩn bị điều gì trước khi vào cõi Chết?”. Vậy tại sao chúng ta phải chuẩn bị cái Chết? Theo tôi, có một số nguyên nhân sau đây:

1/ Khi chuẩn bị cái Chết, ta có thể chủ động mọi việc: viết di chúc, dặn dò vợ (chồng) con, tránh để lại các việc còn dở dang. Biết rằng ta có thể chết bất cứ lúc nào nên khi có thể làm gì tốt đẹp cho ai, nhất là cho những người thân thì ta nên làm ngay khi có thể được. Ta đã chuẩn bị sẵn sàng để có một cái chết có ích cho những người còn lại nên đã dặn dò vợ con là sẽ hiến các bộ phận có thể còn dùng được cho người khác và sẵn sàng các bác sĩ, sinh viên Y Khoa mổ tử thi để học hỏi nghiên cứu thêm…

 2/ Khi chết, ta ra đi chỉ một mình đơn độc, tâm thức lúc ấy vô cùng hoang mang, bấn loạn, sợ sệt, kinh hãi. Vì thế, ta nên biết cái Chết là gì để chuẩn bị sao cho việc ra đi được nhẹ nhàng, mau chóng, không bị hành xác, vừa khổ mình, vừa khổ cho người thân. Khi tái sinh, thì cũng được trở lại làm người hoặc lên cõi thần, tiên. Có người quan niệm rằng dù theo bất kỳ tôn giáo hay niềm tin nào chúng ta cứ cố gắng sống tốt lành, có lỗi thì sám hối và sửa đổi mỗi ngày. Như vậy nếu có đời sau, cõi sau thì các đấng thiêng liêng cũng không đầy chúng ta vào địa ngục đâu dù chúng ta không theo tôn giáo của các ngài.

 3/ Đối với người có tâm tu hành thì cố gắng giải quyết được vấn đề luân hồi - sinh tử ngay lúc còn sống. Nếu chưa được thì cũng tạo được một số vốn về Đạo để tu hành tiếp trong kiếp sau vì cuộc đời là một trường thi để mỗi chúng sanh hoàn thiện chính mình.

Vậy muốn chuẩn bị tốt cho ngày ra đi của mình thì trước hết, chúng ta phải hiểu quan điểm của Đạo Phật: khi sống ta là gì và chết có phải là hết không? và khi chết ta thế nào và có tái sinh không?.

III- KHI SỐNG, TA LÀ GÌ VÀ CHẾT CÓ PHẢI LÀ HẾT KHÔNG?

Đối với Đạo Phật thì sinh được định nghĩa thế nào? Sinh có nghĩa là giây phút xảy ra thụ thai khi dòng tiếp nối liên tục tâm thức (continuum of consciousness) chính là dòng nghiệp lực từ A-Lại-da thức nhập vào trứng (tạo ra bởi sự kết hợp giữa hai tế bào sinh dục: tinh trùng của cha và noãn của mẹ).

Theo quan điểm Đạo Phật thì bất cứ một vật thể nào cũng đều được cấu tạo bởi nhiều thành phần kết hợp lại với nhau. Chính vì thế mà con người được hợp lại từ

5 uẩn (“Uẩn” nghĩa là sự tập hợp thành một nhóm, cũng còn được gọi là “ấm” nghĩa là che mờ. Đó là vì các yếu tố ở mỗi uẩn, một khi tập hợp lại, tác động lẫn nhau rất khó cho ta phân biệt yếu tố nào trong một uẩn là yếu tố chủ động còn yếu tố nào ở một uẩn khác là yếu tố phụ thuộc). Đó là: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Sắc là nói về thân xác nghĩa là phần vật chất, 4 uẩn còn lại thuộc phần tinh thần:

1/Sắc (body) là phần vật chất mà mắt mình nhìn thấy được, chính là thân thể con người. Nói chung sắc uẩn là yếu tố vật chất bao gồm vật lý và sinh lý. Có 5 thể căn bản (ngũ đại) hình thành sắc uẩn là:

- Đất (solid) tượng trưng cho thành phần đặc như xương, cơ, các tạng đặc, mô mềm…

- Nước (fluid) tượng trưng thành phần dịch trong và ngoài tế bào, máu, các dịch tiết…

- Gió (ventilation) là hơi thở ra vào, đem nguồn sống dưỡng khí O2 vào trong cơ thể để nuôi tế bào và sau đó tải thán khí CO2 ra ngoài.

- Lửa (heat) là thân nhiệt tức là năng lượng để nuôi thân (thân nhiệt của chúng ta trung bình là 37 độ C), chính là năng lượng do sự biến dưỡng của thức ăn. Trung bình cơ thể con người cần 1.800 calories/ ngày.

- Khoảng Không tạo ra thính giác giúp nghe và phân biệt các âm thanh. Khoảng Không còn tạo ra những xoang bào, những khoảng trống, khoảng hở ở bên trong cơ thể.

 2/Thọ (feeling or sensation) nói về cảm giác do sự tiếp xúc giữa giác quan và đối tượng. Đức Phật dạy có sáu thọ: mắt tiếp xúc với hình sắc mà sinh thọ, tai với âm thanh, mũi với mùi, lưỡi với vị, thân với vật cứng-mềm, ý với đối tượng tâm ý. Cảm giác theo Đạo Phật không dừng lại ở mức độ tiếp xúc đơn thuần mà là cảm xúc, một biểu hiện sâu hơn của cảm giác. Thọ được chia làm ba loại: lạc thọ (pleasant), khổ thọ (unpleasant) và vô ký thọ (không sướng - không khổ= neutral).

 3/Tưởng (perception) là sự nhận biết (tri giác) rõ hơn về những hình ảnh, âm thanh…Có những điều ta nhớ lại sau khi những gì nghe, thấy đã trôi qua. Ví dụ chiều xem kịch, tối ta tưởng tượng ra trước mắt những cảnh đã diễn ra trên sân khấu. Thậm chí ngay cả khi ngồi thiền mà đầu óc cứ quay cuồng nhớ nghĩ từ việc này đến việc khác là tưởng. Người trẻ, trí óc hoạt động tốt, tưởng rất nhạy bén nên vừa thoáng nghe là nhớ ngay. Đến tuổi già, não bộ trì trệ nên nhớ trước quên sau. Đó là chưa kể những người bị bệnh Alzheimer, phần tưởng uẩn gần như bị hư hỏng hoàn toàn cho nên họ không còn nhớ gì về quá khứ, thậm chí không nhận ra cả con cháu đến thăm họ.

4/Hành (mental formations, thought process, will): Trong khi tưởng uẩn là hình ảnh, màu sắc, âm thanh mà ta cố tưởng tượng lại sau khi đã thấy hoặc nghe thì hành uẩn là ý muốn phát xuất từ não bộ rồi sau đó mới chuyển thành tư tưởng (ý hành), lời nói (khẩu hành) hay hành động (thân hành). Chính hành uẩn này tạo ra nghiệp tốt hoặc xấu và đây chính là động lực đưa con người đi tái sinh, luân hồi sinh tử. 

5/Thức (consciousness, awareness): là cái biết của 6 giác quan: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Cái “thức” này là nòng cốt như có nhãn thức thì mắt ta mới thấy, có nhĩ thức thì tai ta mới nghe. Khi nhãn thức không có mặt thì mắt tuy tiếp xúc với sự vật mà không thấy…ví dụ người chết tuy còn đủ giác quan mà không biết gì nữa là vì thức uẩn đã ra khỏi thân xác.

Thức là khả năng rõ biết, phản ảnh thế giới hiện thực. Khi giác quan tiếp xúc với đối tượng, thức nhận biết sự có mặt của đối tượng nhưng thức không nhận ra đối tượng ấy là gì, là cái gì, màu gì... đó là chức năng của tri giác (tưởng). Thức chỉ nhận biết sự hiện diện của đối tượng giống như tấm gương phản chiếu tất cả những hình ảnh đi ngang qua nó.

 5a) Đối với Đạo Phật Nguyên thủy: Thức được hiểu như là dòng chảy liên tục của các ý niệm và phần tâm linh chỉ có hai cái tâm:

 - Tâm thứ nhất là cảm giác, là cái biết chưa có sự phân biệt. Đó là nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức và thân thức. Cái biết này chính là cái biết của trực giác cho ta những cảm giác dễ chịu, khó chịu, không dễ chịu cũng không khó chịu. Tâm này còn gọi là tiền ngũ thức (5 thức đầu tiên) nghĩa là thấy sao biết vậy.

- Tâm thứ hai là tư tưởng tức là ý thức (thức thứ 6). Nó mượn sự hoạt động của não bộ để phát hiện tức là phân biệt tốt xấu, phải quấy, thịnh suy, vinh nhục, ngon dở, thân sơ… Tâm này là quan trọng và nguy hiểm nhất vì nó có thể sai sử con người vào chỗ đọa lạc. Ý thức rất lanh lẹ cho nên nếu chúng ta có suy nghĩ việc lành, việc tốt thì ý thức đứng đầu. Ngược lại, nếu chúng sinh tính toán tạo tác việc ác, việc bất thiện thì nó cũng đứng trên hết, nghĩa là “Công vi thủ, tội vi khôi” (công đứng đầu và tội cũng đứng đầu).

 5b) Đạo Phật Đại thừa giới thiệu thêm hai tâm nữa. Ngoài 6 thức căn bản ở trên, hai ngài Vô Trước và Thế Thân của Duy Thức tông đã giới thiệu thêm Mạt na thức và A lại da thức để giúp mọi người thấy rõ công năng, sự vận hành của ý thức.

- Tâm thứ ba là Mạt-na thức (thức thứ bảy). Tâm này có công năng giúp cho ý thức chọn lựa, phân biệt những gì có lợi cho Ta và cái của Ta cho nên thức này chấp ngã nhất. Tuy thức thứ bảy có tính toán quyết định gì đi chăng nữa thì cũng do thức thứ sáu là ý thức thúc đẩy, xúi giục cho nên ý thức mới là thức nguy hiểm nhất. Thức thứ bảy này là căn của ý nên cũng được gọi là ý căn (tựa như tiền ngũ thức: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân cũng có 5 căn tương ứng).

- Tâm sau cùng là A-lại-da thức (thức thứ tám), là kho chứa tất cả kinh nghiệm, kiến thức, ký ức, kỷ niệm và tất cả những chủng tử thiện, ác, tốt, xấu và vô ký (không tốt không xấu).

Tâm lý học phương Tây thông thường giải thích cơ cấu của sự nhận thức bằng 6 thức, dựa trên 6 căn, tức là 6 giác quan: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý căn. Mắt, khi tiếp nhận đối tượng của nó là cảnh vật bên ngoài, thì thấy; cũng vậy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân xúc chạm và ý nghĩ suy. Nhưng nếu nhận thức của chúng ta chỉ dựa trên các căn, thì chỉ là một mớ nhận thức rất rời rạc, không thể giải thích được những hiện tượng tâm lý tương quan và thâm sâu. Thí dụ, từ thuở nhỏ, ta quen biết một người bạn, cách xa nhau 30 năm, tình cờ gặp lại, ta nhận được ngay là người bạn cũ thuở xưa. Trong hơn 30 năm đó, ta không hề nghĩ nhớ đến người ấy, mà nay bỗng nhiên gặp, vẫn nhận ra ngay, vậy thì trong suốt thời gian này, hình ảnh của người đó được lưu giữ ở đâu trong 6 giác quan trên để khi vừa gặp lại nhận biết ra ngay? Vấn đề này Tâm lý học phương Tây không giải thích được. 

Trong khi đó, hai ngài Vô Trước và Thế Thân đã tiến xa một bước, đó là đề nghị một cơ cấu ý thức gồm 4 thành tố: 5 thức đầu tiên, thức thứ 6, thức thứ 7 gọi là Mạt-na thức, thức thứ 8 tức là A lại da thức. Hai thành tố sau, Mạt na thức và A lại da thức, là đóng góp lớn của hai ngài đối với ngành Tâm lý học thế giới. Thức thứ 8 còn gọi là tạng thức tàng trữ tất cả những nhận thức của chúng ta dưới dạng chủng tử, có thể ví như bộ nhớ (memory) nằm trong ổ cứng (hard drive) của máy vi tính.

Chính nơi tạng thức này mà hình ảnh của người quen từ vài mươi năm trước được cất giữ; khi gặp lại, thì thức thứ 7, vừa tiếp nhận hình ảnh người mới vừa gặp lại, vừa tìm kiếm trong tận cùng sâu thẳm của thức thứ 8 hình ảnh người quen cũ trước đó 30 năm, phối hợp lại, để trong nháy mắt cho ta biết ngay đây là người đã quen.

Thức thứ 7 này tương ứng với bộ xử lý (DOS) của máy vi tính.

Bây giờ, chúng ta thử xem sự tương quan giữa những gì Đức Phật nói về phần tinh thần trong ngũ uẩn với ẩn dụ tảng băng (iceberg metaphor) theo quan niệm của Freud về tâm con người (human psyche). Phần nổi của tảng băng chỉ là một phần nhỏ (10%) so với phần chìm (90%) như trên sơ đồ sau đây:

  

Phần trên mặt nước tương ứng với phần tâm ý thức được (conscious) chỉ chiếm 10%, còn tầng dưới nước nông là tiềm thức (preconscious hoặc subconscious) chiếm 50% và tầng sâu là vô thức (unconscious) chiếm 40%.

Tảng băng được chia ra 3 phần:

1/ Ego (Ngã) là phần tâm quyết định, dùng lý lẽ để thuyết phục ID (bản ngã) hòa hợp với đời sống thực. Ngã nằm cả trong 3 tầng trên đây.

2/ ID (Bản Ngã) là phần bản năng sinh tồn và khoái lạc, tránh sự đau khổ giống như phản ứng của loài thú. Bản ngã nằm chìm hoàn toàn trong vô thức.

3/ SUPEREGO (Siêu ngã) là phần tâm dựa vào đạo đức có được từ gia đình và xã hội và thường khuyên Ngã và Bản Ngã phải tôn trọng các giá trị đạo đức đó.

Siêu thức cũng nằm trong cả 3 tầng nhưng phần vô thức nhiều hơn phần ý thức.

Thử xem sự tương quan về tinh thần của con người (thọ, tưởng, hành, thức) giảng bởi Đức Phật với thuyết về Tâm con người của Freud.

1/ EGO tương ứng với THỌ, TƯỞNG, HÀNH và 6 thức đầu (TIỀN NGŨ THỨC và Ý THỨC).

2/ ID tương ứng với MẠT-NA THỨC

3/ SUPEREGO tương ứng với A-LẠI-DA THỨC.

Tuy A lại da thức là một cái kho chứa nhóm, nhưng nó biến chuyển vận hành liên tục không ngừng nghĩ, có lúc chuyển chủng tử mới vào và có khi đưa chủng tử ra. Vì sự biến chuyển này mà con người mới có thể tu thành thánh nhân hay trở thành ác quỷ. Còn linh hồn là cố định, bất biến cho nên Đạo Phật phủ nhận có một linh hồn bất tử, đây là điểm khác biệt quan trọng giữa Đạo Phật và các tôn giáo Nhất thần khác. A-lại-da thức luôn luôn biến đổi theo hoàn cảnh sống và theo hành động của chúng sinh. Chính đấy là năng lượng, là sức mạnh gọi là nghiệp lực mà khi một người chết đi, nghiệp lực từ A-lại-da thức nương gá vào một thân thể mới vừa tượng hình có hoàn cảnh phù hợp với nó. Đó là ý nghĩa của “linh hồn đi đầu thai” mà Đạo Phật gọi là thức đi đầu thai. 

Tóm lại, trong con người chúng ta không có gì ngoài năm uẩn. Năm uẩn kết hợp thì hình thành ra con người tức là có sự sống. Đến khi nhân duyên hết, năm uẩn tan rã thì con người chết. Nhưng chết không phải là hết, chết để rồi tái sinh thành con người mới và chu kỳ sinh tử này tiếp diễn liên tục mà nhà Phật gọi là luân hồi. Do vậy, khi còn tạo nghiệp cho dù là thiện hay ác vẫn phải chịu tái sinh để thọ báo những kết quả khổ, vui do chính mình đã gieo.

Khi máy vi tính bị hư (do nhiễm virus chẳng hạn) thì bộ óc (CPU) bị hư, nhưng ổ cứng (hard drive) vẫn tồn tại nên tất cả dữ kiện (data) dung chứa trong đó không bao giờ mất được.

Tương tự như vậy, con người cũng thế, khi chết, bộ óc (CPU) ngưng hoạt động, thân ngũ đại tan rã, nhưng thần thức tức là thức thứ 8 (hard drive) được nghiệp lực chuyển nó sang một thân xác mới gọi là tái sinh

IV- KHI CHẾT, TA THẾ NÀO VÀ CÓ TÁI SINH KHÔNG?

 A-CHẾT LÀ GÌ?

 1- CHẾT LÂM SÀNG (theo Y Học)

Khi mũi hết thở, tim ngưng đập, mất ý thức, đồng tử không phản xạ với ánh sáng khi chiếu vào, điện não đồ đo 2 lần đều không còn sóng.

2- CHẾT THẬT SỰ (theo Đạo Phật)

 Theo Đạo Phật, chết thật sự là khi thần thức rời bỏ thể xác để vào cõi Trung giới, tức là nơi tạm trú của những vong linh chờ đi tái sinh.

1/ Phật giáo Nguyên thủy: Dòng tiếp nối liên tục của tâm thức (continuum of consciousness) trực tiếp chuyển tải nghiệp của một cá thể từ cái chết sang sự sinh (thụ thai) không có sự gián đoạn nào tức không trải qua một thể dạng trung gian nào cả.

2/ Phật giáo Đại Thừa: A-lại-da thức là dòng tiếp nối liên tục của một cá thể, vận hành xuyên qua thể dạng trung gian.Thông thường thể dạng trung gian kéo dài 7 ngày, tối đa 49 ngày sau khi chết.

 3/ Phật giáo Tây Tạng: Cái Chết theo Tử Thư Tây Tạng là khoảng thời gian kéo dài từ lúc một người tắt thở cho đến khi đương sự theo nghiệp để tái sinh vào 1 trong 6 đường là: Tiên, người, thần, súc sinh, ngạ quỷ và địa ngục. Hiểu theo nghĩa này, chết thường có 3 giai đoạn là lâm chung, trung gian và tái sinh.

 3-1/ Lâm chung : kéo dài từ lúc một người thân của ta ngưng thở cho đến khi thần thức người ấy bỏ lại thể xác để vào cõi Trung giới hóa thành vong linh. Theo Tử thư Tây Tạng, nó có thể kéo dài tới 3 ngày rưỡi hay 4 ngày: Khi hơi thở ngưng lại, khí dương từ đỉnh đầu đi xuống và khí âm từ dưới huyệt Đan điền đi lên để hợp thành nguyên khí ở huyệt Giáp Tích, ngang tim. Bấy giờ, người chết thấy một vầng ánh sáng trong, rực rỡ gọi là tịch quang của Pháp thân. Khi ánh sáng này biến đi, người ấy sẽ rơi vào bóng tối cận tử và nhìn thấy tịch quang của Pháp thân lần thứ 2 trước khi thần thức thoát khỏi thể xác. Nếu người chết không đủ bản lãnh lợi dụng cơ hội này để giác ngộ thì sẽ lạc vào cõi Trung giới, hóa thành vong linh, mang thân Trung ấm. Thân này có khả năng xuyên qua tường và di chuyển đồng bộ với tư tưởng của vong linh.Từ lúc mang thân Trung ấm, vong linh lại bị nghiệp lực chi phối và thường phải trải qua 2 giai đoạn là giai đoạn Trung gian và giai đoạn Tái sinh.

 Sự tan rã của xác thân : Chết chính là sự hủy hoại của cơ thể. Theo các Kinh sách cổ Đông phương thì thân xác và tâm thức hình thành là do sự liên kết của 5 thể hay 5 Đại: Đó là Đất, Nước, Gió, Lửa và khoảng Không.

Khi chết thì những Đại này tan rã rất nhanh và người sắp chết lúc ấy cũng sẽ trải qua những xáo trộn cả về thể xác lẫn tinh thần. Hơi thở cuối cùng hắt ra. Chỉ còn một chút hơi ấm ở tim. Sự sống chấm dứt.

 Tuy nhiên theo các Lạt Ma Tây Tạng, nhất là những lời ghi chép trong Tử Thư, thì lúc này người đó thật sự vẫn chưa chết vì tâm thức còn có thể nghe, nhận biết những gì xảy ra chung quanh. Do đó mới có lời căn dặn rằng, thân nhân người mới chết không nên gây huyên náo, khóc lóc, kể lể hay làm những điều gì có thể gây đau khổ, buồn phiền, thất vọng cho người vừa mới qua đời. Lúc này là lúc mà thân nhân nên thay phiên nhau tụng kinh, đọc kinh cầu nguyện ít nhất là trong vòng 49 ngày.

Nếu tâm thức họ cứ mơ mơ màng màng, không biết rõ tình trạng của mình thì sẽ rất tai hại vì trong vòng 49 ngày họ lại càng khó phản ứng thích hợp với những gì đang chờ đợi họ bên kia cửa tử. Do đó các vị Đại sư thường căn dặn các đệ tử khi ở cạnh người sắp qua đời hãy tế nhị cho họ biết rõ là họ sẽ phải từ giã cõi thế gian, đó là điều mà bất cứ ai cũng đều phải trải qua không sớm thì muộn. Biết được chắc chắn như thế thì họ sẽ mạnh dạn và dứt khoát ra đi với ý thức là mình đã thực sự chết rồi.

 3-2/ Giai đoạn Trung gian: kéo dài 14 ngày kể từ khi thần thức của người chết vào Trung giới với thân trung ấm. Đây là lúc chư Phật và Thánh Chúng hiện đến tiếp dẫn. Nhưng chỉ những vong linh nào có duyên, có sự tu tập vững vàng mới nhận ra các Ngài và được các Ngài cứu độ.

 Cũng theo Tử thư Tây Tạng, trong lúc chư Phật và Thánh chúng phóng quang chiếu soi, vong linh nào khi sống đã tu tập và thấy Tánh mới có thể hợp nhất vào Trí quang của Chư Phật hay sắc thân của Thánh Chúng và liền thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi.

Trên đây là quan niệm của Mật Tông, còn theo những người thanh tu-tịnh nghiệp (các vị tu theo Tịnh Độ Tông niệm Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc) thì “Chư Phật và Thánh Chúng phóng quang không phải chỉ để chiếu soi mà là để tiếp dẫn thần thức của người niệm Phật”.

 3-3/ Giai đoạn Tái sinh: bắt đầu từ tuần lễ thứ 3, khi Chư Phật và Thánh Chúng đều đã biến đi. Giai đoạn này có thể dài hay ngắn tùy theo tâm trạng và nghiệp báo của mỗi vong linh.

Những nghiệp này vốn là nhân được lưu trữ ở trong A-lại-da thức dưới dạng chủng tử hay hạt giống. Chỉ cần có đủ cơ duyên thì những nhân này sẽ thành quả. Quả của nghiệp gọi là nghiệp quả hay nghiệp báo. Nghiệp báo có 2 loại:

1/ Chính báo là thân tâm của ta.

2/ Y báo là hoàn cảnh sống của ta.

Quá trình tạo nghiệp và chịu quả báo nói trên thông qua 3 thời là quá khứ, hiện tại, vị lại. Do đó, chết không phải là hết. Khi chết, chỉ có hình hài tan rã, còn A-lại-da thức sẽ theo thần thức tái sinh vào một trong 6 cõi luân hồi tùy theo nghiệp báo.

Có những vong linh không qua giai đoạn này vì họ đã vãng sinh hoặc tái sinh trước đó. Có những vong linh chỉ ghé qua vài giờ. Nhưng cũng có những vong linh phải lưu lại tới 49 ngày hay lâu hơn. Thân trung ấm của con người có hình người bằng đứa bé 8 tuổi lành lặn hoàn toàn nhưng nếu người ấy bị đọa vào loài thú thì thân ấy sẽ chuyển thành thân thú trước khi tái sinh.

 B-CHẾT RỒI SẼ VỀ ĐÂU ?

1- ĐỐI VỚI NGƯỜI KHÔNG TU

Khi chết, người đó phải theo nghiệp báo mà tái sinh vào một trong lục đạo. Người ta chia nghiệp ra 4 loại :

1/ Cực trọng nghiệp gồm 5 nghiệp rất nặng là giết cha, giết mẹ, giết Alahán (bậc thánh giải thoát), làm tổn thương thân Phật chảy máu, chia rẽ Chư tăng và phá hủy tượng Phật. Những nghiệp này có thể thay đổi số mạng người đó khiến họ chết non hay bị đọa vào địa ngục Vô gián (nghĩa là không bao giờ gián đoạn, không bao giờ ngưng).

 2/ Cận tử nghiệp tùy vào Thân-khẩu-ý của người lúc hấp hối. Nếu thân-khẩu-ý trong sạch thì người đó tái sinh vào 3 đường thiện còn ngược lại thì người đó sẽ sinh vào 3 đường ác. Cận Tử Nghiệp là nghiệp tạo ra hay nhớ nghĩ lúc lâm chung. Nghiệp này chi phối việc thác sanh vì có thể làm cho người có Tập quán nghiệp tốt mà lúc hấp hối bị hoàn cảnh làm nổi tham sân thì có thể thác sinh vào cõi xấu; còn người Tập quán nghiệp xấu nhưng nhờ trợ niệm đắc lực lại sanh vào cõi Tiên (Trợ niệm lúc lâm chung là cách cầu kinh, niệm Phật, nhắc nhở giúp tạo Cận Tử Nghiệp tốt cho người hấp hối).

3/ Tập quán nghiệp là nghiệp quan trọng quyết định nơi đầu thai, là những thói quen tạo ra tính cách, cá tính, đạo đức của con người: những tín đồ thuần thành của các tôn giáo chân chính đều có được tập quán nghiệp tốt vì thường đi chùa, nhà thờ, tụng kinh, cầu nguyện, nghe giảng giáo lý, ăn chay, làm thiện, sửa đổi thân tâm...; một số nghề nghiệp cũng tạo nên nghiệp này có thể thiện hay ác như Thầy giáo, Thầy thuốc, quân nhân...; ăn trộm, ăn cướp, kỷ nữ... 

Ngoài ra, những thói quen và nhất là những đam mê của chúng ta ở trong đời này: Ví dụ trường hợp người chuyển thân làm chó để giữ gia tài mà ông ta đã chôn dưới gầm giường nhưng chưa kịp nói cho vợ và con trước khi chết.

4/ Tích lũy nghiệp là những nghiệp còn lại ngoài 3 loại nghiệp trên đã được tạo từ trước tới nay mà chưa hề sám hối nên vẫn còn tồn trữ trong A lại da thức dưới dạng chủng tử qua bao kiếp luân hồi. Chỉ khi nào người chết không vướng vào Cực trọng nghiệp và cũng không có Tâp quán nghiệp hay Cận tử nghiệp gì nổi trội thì Thức tái sanh mới là Tích Lũy Nghiệp này.

Những người không có tâm nguyện hay một thói quen đặc biệt nào thì sẽ theo tích lũy nghiệp để tái sinh và quy luật chi phối việc tái sinh trong trường hợp này rất phức tạp. Nhưng chúng ta có thể nói một cách tổng quát và ngắn gọn rằng:

a/ Nếu là người siêng làm việc thiện thì sẽ thăng lên cõi Tiên.

b/ Nếu là người nhẫn nại, hiền lương thì sẽ trở lại nhân gian.

c/ Nếu là người nóng giận ưa gây gổ thì sẽ lạc vào cõi Thần Atula.

d/ Nếu là người si mê, trộm cắp, dâm dục thì sẽ bị đọa làm súc sinh.

e/ Nếu là người tham lam, bỏn sẻn, ích kỷ sẽ biến thành ngạ quỷ (còn gọi là cô hồn hay ma đói).

f/ Nếu là người ganh tị, độc ác, lừa đảo thì sẽ bị đọa vào địa ngục.

 

 2- ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ TU HÀNH

1/ Người tu mà chưa đắc Đạo thì vẫn phải theo nghiệp thọ sinh như người phàm phu. Chỉ khác là nghiệp của họ thường là thiện nên phần lớn, họ đều được tái sinh vào cõi Tiên hay cõi người.

2/ Còn đối với người tu hành đã đắc Đạo, có 2 trường hợp xẩy ra:

a/ Những người tu hành đã đắc Đạo nhưng phát nguyện trở lại cõi Ta Bà để độ sinh thì sẽ theo nguyện lực tái sinh như trường hợp của các Đạt- lai- Lạt- ma hoặc các vị Lạt ma Tây Tạng cao cấp.

b/ Những người tu hành đã đắc Đạo nhưng không muốn trở lại cõi Ta Bà thì sẽ được giải thoát theo pháp môn mình chọn. Có rất nhiều pháp môn nhưng tựu chung là 3 pháp môn chính: Thiền tông,Tịnh độ tông và Mật tông.

- Người tu Thiền sẽ nhập vào cõi Niết Bàn.

- Người tu Tịnh sẽ sinh vào cõi Cực Lạc.

- Người tu Mật Tông, tụng chú sẽ nhập vào tịch quang của Pháp Thân vào lúc lâm chung. Khi người đó tắt thở và trước lúc thần thức rời bỏ xác, tịch quang này chỉ hiện ra có 2 lần, mỗi lần vài phút nên khó mà nhập được vào.

Nếu không được thì phải chuyển hướng, hợp nhất với Thầy tâm linh (Guru) của mình hay một trong các vị Thánh hiện đến tiếp dẫn ở giai đoạn Trung gian.

Còn như sợ tự mình không làm được việc đó thì phải nhờ một vị Thầy có thiên nhãn theo dõi và nhắc nhở rằng mình hiện đang đối diện với vị thánh nào và phải xử trí ra sao.

 C-ĐẠO PHẬT CÓ THỂ GIÚP GÌ CHO NGƯỜI SẮP LÌA ĐỜI ?

1/ QUAN NIỆM SỐNG CHẾT THEO ĐẠO PHẬT

 Chết là sự tách rời giữa dòng tiếp nối liên tục tâm thức và cơ sở vật chất. Theo quan điểm Đạo Phật thì dòng tiếp nối liên tục đó không chấm dứt. Dù nó không thể tiếp tục lưu trú trong thân xác nữa nhưng nó vẫn tiếp tục tồn tại. Tùy theo trường hợp, nó có thể chuyển sang một thể dạng trung gian gọi là bardo (trung ấm) hay hướng vào một sự tái sinh mới. Nó hướng vào một cơ sở vật chất mới, thâm nhập vào đấy và làm phát sinh ra một sự thụ thai mới, tức là điểm khởi đầu của một cuộc sống mới. Cuộc sống mới ấy sẽ kéo dài một thời gian nào đó và rồi cũng sẽ chấm dứt, và cứ tiếp tục như thế. Đó chính là luân hồi sinh tử do sự tác động của nghiệp mà cá thể ấy đã tích lũy từ trước.

 Cái chết là một hiện tượng xảy ra vào lúc mà cơ sở vật chất dùng để chống đỡ tâm thức bị thoái hóa, và sự thoái hóa đó có thể xảy ra vào bất cứ giai đoạn nào trong cuộc sống. Không nhất thiết là phải xảy ra khi già nua, mà cả lúc còn trẻ, chẳng hạn các trường hợp bị tai nạn. Trong trường hợp tai nạn xe cộ hay bất cứ tai nạn nào khác, cơ sở vật chất đang trong thể dạng hoạt động đột nhiên mất hết những khả năng bình thường của nó và không còn chuyển tải tâm thức được nữa.

 2/ ĐẠO PHẬT CÓ THỂ GIÚP GÌ CHO NGƯỜI SẮP LÌA ĐỜI ?

 Vậy theo Đạo Phật, chết không phải là hết như đã trình bày ở phần trên mà chỉ là cơ hội để giải thoát (đối với các bậc chân tu) hoặc làm lại cuộc đời trong một kiếp khác (đối với người thường) nên Đạo Phật mới khuyên chúng ta sám hối lỗi lầm và tịnh tu 3 nghiệp.

Ba nghiệp là nghiệp của Thân, Khẩu,Ý mà quan trọng nhất là Ý vì từ nghiệp của Ý mới kéo theo nghiệp của Khẩu và nghiệp của Thân. Ngoài ra, nghiệp quá khứ không quan trọng bằng nghiệp hiện tại vì nghiệp quá khứ đã xẩy ra rồi, ta không sửa được mà chỉ có thể sám hối, còn nghiệp hiện tại thì ta có thể chủ động được.

Do đó, người sắp lìa đời cần phải đặc biệt lưu ý đến những gì mình nghĩ, nói và làm. Cận tử nghiệp này sẽ ưu tiên quyết định nơi mà người đó sẽ tái sinh.

Theo Tử thư Tây Tạng, việc thần thức rời bỏ thể xác được khởi sự vào lúc người đó rơi vào bóng tối cận tử và có cảm giác như đang bay rất nhanh trong một hang tối với tiếng gió rít bên tai. Khi gió ngưng bặt và bóng tối tan đi thì thần thức, giống như con rắn vừa lột xác, có thể quan sát cái thân mà nó bỏ lại, để ra đi. Thần thức lúc đó bay lượn quanh xác mình, rất tỉnh táo và biết hết mọi chuyện xẩy ra mặc dù không còn ngũ quan nữa. Đây là một điều lạ mà khoa học chưa giải thích được. Chính lúc này, thân nhân đừng nên than khóc, nhất là để nước mắt rơi trên xác khiến thần thức càng quyến luyến đau khổ hơn.Thần thức thấy được mọi người, nghe rõ ràng họ nói nhưng thân nhân thì không thấy hoặc nghe họ được. Đây là thời gian rất tốt để trợ niệm và thường nằm trong khoảng 8 giờ đầu kể từ khi người đó tắt thở. Người Tây Tạng thường trợ niệm trong 3 ngày rưỡi hay 4 ngày.Trong điều kiện ở Việt Nam, chúng ta nên làm như người Tây Tạng nhưng còn ở ngoại quốc, xác chết phải để trong phòng lạnh của nhà quàn nên chúng ta cố gắng trợ niệm trong 8 giờ đầu rồi 3-4 ngày sau. Khi làm lễ phát tang và cầu siêu, chúng ta mời quý tăng ni, bà con và bạn bè tới trợ niệm và cử hành tang lễ. Khi an táng xong xuôi, chúng ta liền rước vong linh lên chùa để cầu siêu trong 7 tuần liền, mỗi tuần một lần.

Trợ niệm và Cầu siêu rất khác nhau:

- Trợ niệm gồm 2 việc chính: Một là nhắc nhở người sắp chết, đang chết hay mới chết phải lo niệm Phật cầu sinh Cực Lạc và hai là niệm Phật hiệu để hối họ niệm theo.

- Cầu siêu là chúng ta có thể hoặc dùng tên mình hoặc thay vong linh, cúng dường, sám hối, tụng kinh, niệm Phật hay trì chú rồi đem phúc đức tạo được hồi hướng cầu cho vong linh vãng sinh Cực Lạc, hóa sinh lên trời hay tái sinh làm người.

D- SỰ THAM GIA CỦA KHOA HỌC VỀ CÁI CHẾT

1-KINH NGHIỆM CẬN TỬ (NED= NEAR DEATH EXPERIENCE)

 Năm 1928, GS GEORGE RITCHIE, BS Tâm thần học ĐHYK VIRGINIA, xuất bản quyển RETURN FROM TO MORROW (Trở về từ tương lai) kể về kinh nghiệm cận tử của chính ông lúc còn trẻ khi làm lính trong quân đội Hoa Kỳ. 450.000 quyển sách này đã được bán trong một thời gian ngắn.

 Sau đó, quyển “Life after life” (Đời nối đời) của bác sĩ Raymond Moody được xuất bản vào năm 1975 đã trở thành một best seller trong năm, gây dư luận xôn xao trong giới độc giả. Ngay trang mở đầu, tác giả đã trân trọng đề tặng bác sĩ Ritchie vì kinh nghiệm cận tử của ông này đã gợi ý cho tác giả dấn thân vào việc nghiên cứu cái chết. Raymond Moody đỗ tiến sĩ Triết học, sau 3 năm dạy Triết tại Đại học North Carolina, ông nghỉ dạy, đi học Y khoa và trở thành một bác sĩ chuyên khoa tâm thần. Ông muốn trở thành giáo sư dạy về Triết lý Y học tại Đại học Y khoa. Trong thời gian đi dạy hoặc đi học, ông thường được nghe các sinh viên, bạn bè hoặc những người khác kể lại về những kinh nghiệm của họ trong cảnh chết đi sống lại của chính họ hoặc của người thân. Nhận thấy đó là một kinh nghiệm lý thú nên phổ biến để nhiều người cùng chia sẽ, ông bắt tay vào việc thu thập tài liệu, phỏng vấn những người đã từng trải qua trạng thái đó.“Life after life” là tổng kết tất cả những gì R.Moody đã thu thập được trong bước đầu, sau 5 năm sưu tập với 150 trường hợp điển hình. Tổng kết kinh nghiệm của những người đã từng đối diện với Thần Chết, Moody đã vẽ nên một bức tranh điển hình về cái chết (kinh nghiệm cận tử) như sau:

"Một người đang chết, và tới lúc suy kiệt cùng cực của thể xác, anh ta nghe bác sĩ tuyên bố rằng mình đã chết. Anh nghe vang lên một âm thanh khó chịu, như thể tiếng chuông rung lớn hay tiếng huyên náo, cùng lúc đó, cảm thấy thân mình như được phóng đi rất nhanh trong một đường hầm tối om om. Sau đó, bỗng nhiên anh ta nhận thấy đang ở ngoài thể xác của mình, tuy vẫn ở trong khung cảnh thực của lúc ấy, và như một khán giả, anh thấy cái xác của mình nằm đó, cách một quãng ngắn. Trong một tâm trạng xúc động cùng cực, anh ta quan sát nỗ lực của các bác sĩ và điều dưỡng nhằm hồi sinh cái xác kia. Sau một lúc, anh ta trấn tĩnh lại và trở nên quen thuộc với trạng huống kỳ cục này. Anh nhận ra rằng mình vẫn còn một cái thân, nhưng là một cái thân với tính chất và năng lực rất khác với cái thân xác vật chất mà anh đã bỏ lại. Rồi những việc khác bắt đầu xảy ra. Có những kẻ đến gặp và giúp đỡ anh. Anh thoáng thấy vong linh của thân nhân và bạn bè đã chết và một vị Thánh như bằng ánh sáng, đầy vẻ thương yêu ân cần mà anh chưa hề gặp, xuất hiện trước mắt.Vị này hỏi anh ta một câu để anh tự đánh giá cuộc đời mình và giúp anh trong chớp mắt thấy lại toàn cảnh cuộc đời với những biến cố quan trọng.Vào lúc đó, anh ta nhận ra như đang tiến tới một thứ ranh giới nào đó, phân cách cuộc đời trần thế và cuộc sống kế tiếp. Bấy giờ, anh ta thấy rằng mình phải trở về trần thế vì chưa đến lúc phải chết. Chính vào lúc đó, anh lại tỏ ra phân vân do dự, vì anh đã có kinh nghiệm về kiếp sau như thế nào rồi, không muốn trở về nữa. Anh cảm thấy tràn trề sung mãn trong niềm an lạc thương yêu. Dầu muốn vậy, nhưng bằng một cách nào đó, anh ta lại nhập vào cái xác kia và sống lại.Về sau, anh ta cũng có thể đã kể câu chuyện đó cho người khác nghe, nhưng đã gặp trở ngại. Thứ nhất, anh ta không thể tìm được thứ ngôn ngữ thích hợp để diễn tả lại những gì đã xảy ra nơi cái cõi không phải là trần thế kia. Thứ hai, anh ta đã bị người nghe nhạo báng, nên thôi, không nói cho ai nghe nữa.Tuy vậy, kinh nghiệm đó đã tác động sâu xa vào cuộc đời anh, đặc biệt là đối với cái nhìn của anh về cái chết và các mối quan hệ trong cuộc sống".

Cuốn “Life after life” đã gây ngạc nhiên thích thú cho một số lớn người đọc (3 triệu bản đã được bán ra từ 1975 đến 1981) vì những tiết lộ thật là mới mẻ về cái chết. Người ta không ngờ rằng cái hiện tượng rất quen thuộc ấy lại chứa đầy những điều lạ lùng bí ẩn như thế.Tuy nhiên, những tiết lộ đó chưa có tính thuyết phục cao, nhất là đối với giới khoa học. Người ta không tin cũng phải, vì giữa thời đại mà các ngành khoa học hàng đầu như điện tử, điện toán, nguyên tử, sinh học... tiến bộ như vũ bão, đem lại bao kết quả thần kỳ trong cuộc sống hàng ngày của hàng tỷ người trên mặt địa cầu này, thế mà bác sĩ Moody lại đi giới thiệu về một bức tranh về cái chết bằng những đường nét đầy màu sắc hoang tưởng! Mặt khác, như bác sĩ Moody đã viết trong chương Vấn đáp, người ta có thể đặt câu hỏi rằng nếu kinh nghiệm cận tử là một hiện tượng phổ biến, thế tại sao từ lâu không ai nghe nói đến?

 Michael Sabom đã viết cuốn “Recollections of Death, a medical investigation” (Tái sưu tập về cái chết, một cuộc điều tra Y học, 1982). Những gì ông công bố trong cuốn sách này, không những không có gì mâu thuẩn với “Life after life” của Moody mà lại càng làm sáng tỏ thêm, củng cố thêm những sự thực đã được tiết lộ về cái chết. Ông viết: "Tôi phải công nhận rằng lần đầu tiên đọc Life after life, tôi có cảm tưởng những kinh nghiệm này (NDE) được nói ra, hoặc là do những người đó muốn lợi dụng tác giả, hoặc chính bác sĩ Moody tô điểm thêm để làm thành một cuốn sách ăn khách. Sau 5 năm, với 116 cuộc phỏng vấn, tôi nhận thức rằng mối hoài nghi ban đầu của tôi là sai lầm".

Khi nhận thức rằng kinh nghiệm cận tử là một hiện tượng phổ biến, người ta mới thử quay về quá khứ, lục tìm trong kho sách cổ kim Đông Tây xem vấn đề đó đã được đề cập chưa và thấy rằng người xưa đã nói tới rồi, chỉ có điều vì cơ duyên chưa đến nên đã bị người đời quên lãng mà thôi.

Trong số những tác phẩm thuộc về Đạo học, người ta nhận ra sự hiện hữu của hai cổ thư của Ai Cập và Tây Tạng với giá trị lớn lao của chúng mà kinh nghiệm cận tử đã được kể lại rất nhiều. Bên cạnh chuyện kể của những người bình thường, còn có cả những nhân vật tiếng tăm, thế mà ngưòi ta đã không mảy may chú ý. Chẳng hạn kinh nghiệm về cái chết của Đô dốc Francis Beaufort lúc ông còn bé, bị rơi ở hải cảng Portsmouth (Anh quốc) năm 1795; của Đô đốc Richard Byrd khi ông thám hiểm Nam-cực; của văn hào Ernest Hemingway khi ông bị pháo kích trọng thương vào ngày 18-7-1918 tại mặt trận Ý, lúc tham gia Thế chiến thứ 1 (1914-1918) v…v.

          Trong lãnh vực nghiên cứu kinh nghiệm cận tử, Moody và Sabom không phải là hai khuôn mặt độc quyền và đi đầu. Cả hai được nhắc nhở nhiều vì sớm có công trình chào đời và công trình của họ tạo được sự chú ý lớn lao của dư luận. Người ta có thể kể những khuôn mặt lớn khác trong lãnh vực này, như tiến sĩ Kenneth Ring, bác sĩ Elizabeth Kubler-Ross (người đề tựa cho sách của Moody), Osis và Haraldsson v…v. Hiện nay, việc nghiên cứu về cái chết không còn là việc làm riêng lẻ của từng cá nhân nữa. Nó đã chính thức đi vào các đại học lớn, như một chuyên ngành mới: Connecticut, Michigan, Iowa, Virginia, Western New Mexico, Berkeley, Seattle Pacific, Denver...đều là những đại học có chuyên ban nghiên cứu NDE. Hiệp Hội Nghiên Cứu Cận Tử Quốc Tế (The International Association for Near Death Studies) đã được thành lập, đặt trụ sở tại Đại học Connecticut, do tiến sĩ Kenneth Ring làm chủ tịch, qui tụ những người cùng quan tâm vấn đề này trên khắp thế giới.

 2- LINH HỒN DƯỚI GÓC NHÌN CỦA KHOA HỌC

 Theo GS Bruce Greyson, trưởng khoa Nghiên cứu tri giác (DOPS= Division of Perceptual Studies) thuộc Đại học Hệ thống Y tế Virginia (Mỹ), trải nghiệm cận tử xảy ra ở 10% bệnh nhân ngừng tim. Khi tỉnh lại, người bệnh có thể mô tả chính xác mọi hoạt động chung quanh khi họ bất tỉnh. Điều đáng nói là trong nhiều trường hợp trải nghiệm cận tử, điện não đồ và các bằng chứng y khoa khác cho thấy, não bệnh nhân không còn dấu hiệu hoạt động khi hiện tượng này diễn ra.

 

Ông Pim van Lommel, chuyên gia về trải nghiệm cận tử tại Bệnh viện Rijnstate (Hà Lan) đồng tình về vấn đề này. Ông cho rằng, khi ở trạng thái cận tử, "người bệnh không những có ý thức, mà ý thức của họ còn mở rộng hơn bao giờ hết. Họ có thể suy nghĩ hết sức rõ ràng, hồi tưởng chi tiết về thời thơ ấu và cảm thấy sự liên hệ chặt chẽ với tất cả mọi người, mọi vật xung quanh. Trong khi não họ hoàn toàn không có dấu hiệu hoạt động".Theo GS Peter Fenwick, Viện Tâm thần học thuộc Đại học Kings (Anh quốc): "Nếu có thể chứng minh rằng con người vẫn tiếp nhận thông tin khi họ bất tỉnh và thoát xác thì đó là bằng chứng không thể tranh cãi về việc ý thức tồn tại tách rời bộ não".

Có lẽ, ý tưởng về linh hồn cũng xuất phát từ hoàn cảnh này. Con người từ thời cổ xưa, khi thiền định, cho rằng lúc xuất hồn, phần tinh thần rời khỏi phần thể xác. Từ đó, họ bắt đầu tin vào sự tồn tại của ý thức bên ngoài cơ thể.

Ý tưởng của GS Penrose ám chỉ đến một cơ chế để ý thức tiếp tục tồn tại sau khi thân thể con người đã chết. Nhưng nó sẽ đi về đâu? Theo GS Hameroff: "Nếu người bệnh không được cứu sống, ý thức sẽ đi vào vũ trụ và biết đâu có thể một ngày nào đó sẽ được một cơ thể khác tiếp nhận trở lại". DOPS hiện đang lưu giữ khoảng 1.400 hồ sơ về các trường hợp được cho là thuộc dạng này. Phần lớn đó đều là những đứa trẻ nhớ được tiền kiếp. Các em có thể kể vanh vách trước đây mình là ai, sống ở đâu, làm gì, trông như thế nào và nhiều chi tiết khác. Ian Stevenson, một trong những chuyên gia tâm thần học hàng đầu nước Mỹ, người sáng lập DOPS bắt đầu thu thập những câu chuyện về tiền kiếp từ năm 1960. Trong số các tài liệu ông ghi nhận được, có trường hợp một đứa trẻ được sinh ra có bớt ở đúng vị trí vết thương mà em đã bị trong kiếp trước. Một số luôn bị ám ảnh sợ những sự vật, hiện tượng đã gây ra cái chết trong tiền kiếp. Stevenson và các đồng nghiệp của ông chưa bao giờ khẳng định rằng hiện tượng đầu thai thực sự xảy ra. Họ chỉ cố gắng thu thập các bằng chứng về nó.Trong khoa học, những bằng chứng này có thể chẳng bao giờ đủ để khẳng định linh hồn con người tồn tại sau cái chết về thân xác và sau đó tái sinh trở lại trong một cơ thể mới. Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta có thể khẳng định rằng không có linh hồn.

 3-TÁI SINH LUÂN HỒI

 Trong quyển Đức Phật và Phật pháp (The Buddha and his teachings) của ĐĐ Narada ở cuối chương 2 có kể rằng : Khi nhập thiền sâu, thái tử Siddhartha đã chứng ngộ 3 tuệ giác gọi là Tam minh: Túc mạng minh (nhớ được các tiền kiếp của mình), Thiên nhãn minh (mục kích sự phân tán và cấu hợp của các chúng sinh) và Lậu tận minh (hiểu biết sự chấm dứt các pháp trầm luân). Ngoài ra còn biết bao nhiêu câu chuyện trên thế giới này về những người nhớ lại được tiền kiếp của mình, chưa kể đến các câu chuyện luân hồi của Đức Dalai Lama và sự tái sinh của các Lạt ma Tây Tạng. 

 Có người có ý kiến phản bác “ luân hồi - tái sinh” cho rằng chết là hết, như tắt một cái ti vi vậy. Nếu ví dụ như thế, thì chính anh ta đã thừa nhận có tái sinh, khi bật ti vi lần sau và thấy rằng, nó vẫn là cái ti vi như trước. Bởi vì, những “ký ức” mà lần đầu tiên, khi đưa ti vi vào sử dụng, ta đã phải mất công sức, dò tìm sóng thu cho khoảng 30 kênh, để đưa vào lưu giữ trong bộ nhớ của nó, và các thông tin ấy không bị xóa hết khi tắt máy. Con người là một sinh thể, có năng lượng của thể xác và của tinh thần. Cái chết của thể xác không kéo theo cái “chết” của năng lượng. Bởi vì năng lượng được bảo toàn: Năng lượng không tự sinh ra và cũng không tự biến mất, mà không để lại dấu vết gì. Vậy, sau cái chết của thể xác, nó đi đâu? Nó chuyển hóa thành nhiệt hòa vào vũ trụ, nghĩa là cho không gian mà nó đã tồn tại. Còn năng lượng tinh thần là sản phẩm của quá trình tương tác thông tin như một sóng đã được mã hóa, tồn tại như một chức năng vĩnh viễn, không cần giá đỡ vật chất, được giải phóng và lan truyền trong không gian và thời gian. Đó là những gì còn tồn tại sau cái chết của thể xác, như kết thúc một chu kỳ vật chất, đúng theo qui luật của tự nhiên.

 Với những điều kiện cần và đủ, từ các căn cứ khoa học, người ta có thể kết luận rằng: Hiện tượng luân hồi ở con người là có thể hiểu được. Trước hết, vì nó là một hiện thực đang hiện hữu và đã hiện hữu rất lâu đời tại nhiều nơi trên thế giới, và tốn không ít giấy mực ghi chép cũng như cuốn hút tâm trí của nhân loại. Thứ nữa, là nó vận động trong một tổng thể thống nhất phụ thuộc lẫn nhau giữa thế giới hữu hình và vô hình, giữa vận động vật chất và thông tin.

Đây là cuộc luân hồi thông tin ký ức như một sóng không mang theo vật chất, chứ không phải vật chất luân hồi. Vậy thì khái niệm tái sinh, theo quan điểm khoa học sẽ khác với quan niệm dân gian. Dân gian coi luân hồi là sự tái sinh trở lại, nối tiếp cái sống của ai đó ở kiếp trước, nghĩa là tiếp tục cấu trúc gen, cấu trúc ADN, v.v… của người đó. Với những bằng chứng khoa học có được hiện nay, thì đó là điều không thể xảy ra. Cũng giống như câu chuyện “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” vậy, về mặt ký ức thì rõ ràng đây là con người và cuộc đời của Trương Ba. Nhưng thân xác này, đâu có phải của Trương Ba? Đối với dân gian, cái phần vật chất (thể xác) ấy không quan trọng và không đáng bận tâm: “Nhân cách Trương Ba còn đó, quan trọng hơn”. Chính vì thế, người ta coi Trương Ba đã “tái sinh”: Hồn Trương Ba đã nhập vào xác anh hàng thịt. Gọi là Hồn, Linh hồn hay Thần thức, tên gọi không quan trọng, mà quan trọng là bản chất hiện thực của nó là cái gì?

Trò chơi bất tận của nghiệp và quả, của tác động và phản động, của hạt và trái, để gây ra sự tái sinh, cứ nối tiếp nhau qua những vòng luân hồi sai biệt. Mục đích của các vòng luân hồi ấy, như đã nói ở đoạn trước, là để biến hiện, để trở thành, để tạo ra một chuỗi những thay đổi mới, từ cái thực tại hiện hữu, gồm tâm lý phối hợp với vật thể của mỗi chúng sinh. Thật là hiển nhiên để thấy rõ rằng : Ý muốn hay tiềm lực hướng đến sự sống chính là mầm tái sinh. Khi có Ý muốn sống, một tâm linh sẽ tạo tác bằng tất cả những gì nó có. Người hiện tiền thì tạo tác bằng thân, khẩu, và ý. Còn kẻ đã chết thì chỉ bằng Ý (hay thần thức) mà thôi. Và hễ có ý xuất động, thì tất nhiên phải có ý phản động. Rồi từ Ý xuất động đến Ý phản động đã có sẵn môi trường nghiệp quả nhân duyên tích lũy nữa, thì sự tái sinh là một việc chắc chắn phải đến, chứ không có gì khó hiểu cả. Duy một điều : «Sự tái sinh ấy sẽ hiện ra dưới dạng nào, tiến hóa hay thoái hóa» mới là vấn đề quan trọng, đáng nghiên cứu.

Theo Phật giáo, sự luân hồi tái sinh trong tam giới, Đức Phật nói ra để cho người ta biết, mà hành đạo giải thoát, chứ không phải nói ra để cho người ta tin. Vì tin hay không tin chẳng thành vấn đề. Hễ có thân ngũ uẩn, thâm nhiễm tham sân si, thì phải tái sinh luân hồi, vướng chặt trong những vòng nhân duyên quả báo. Không phải vì không tin mà khỏi tái sinh, khỏi nhận lại những hậu quả do tiền nghiệp mình đã tạo. Ví như vật chất có mặt trên địa cầu, khi buông ra thì nó phải tự nhiên rơi xuống đất. Người ta tin hay không, sự thật vẫn như vậy !

Cuối cùng, cũng đừng huyền bí hóa luân hồi một cách thái quá,vì đó cũng chỉ là quy luật tự nhiên, như các quy luật khác, nhằm bảo toàn tâm linh, cái quý giá nhất để con người hướng tới cái Thiện. Do đó GS Vật lý Trịnh Xuân Thuận đã phát biểu:“Vì vậy, việc chúng ta nghiên cứu vấn đề này, một cách nghiêm túc và khoa học, là điều rất quan trọng. Chúng ta có thể được hưởng lợi từ tập hợp những kinh nghiệm tích lũy được trong các kiếp trước, để chúng ta phát triển hài hòa hơn. Quan niệm của chúng ta về cái thiện và cái ác sẽ trở nên vững chắc hơn”. 

 Chúng ta có thể nghe kể biết bao nhiêu trường hợp nhớ lại tiền kiếp trên Internet, ngay cả gần đây ở miền Bắc Việt Nam. Nhưng có lẽ trường hợp của cháu James Leininger tại Hoa Kỳ cách đây gần 20 năm là một trường hợp điển hình. Nhiều bài báo đã viết về cháu và ABC News đã phỏng vấn cha mẹ cháu trên đài truyền hình Hoa Kỳ.

 

Cháu James Leininger sinh năm 1998 chụp hình chung với bố mẹ của em là tái sinh của một phi công Hoa Kỳ tên là James Huston đã bị chết vì máy bay trúng đạn của quân Nhật trong Thế chiến thứ 2 (Xin xem chi tiết trên Internet, chỉ cần đánh tên “James Leininger và hiện tượng tái sinh”).

 Ngoài ra, bác sỹ tâm lý Adrian Finkelstein ở California là một chuyên gia nghiên cứu về tiền kiếp. Năm 2006, trong một cuốn sách mới của mình:“Marilyn Monroe returns, Healing of a Soul” (Tạm dịch: Marilyn Monroe tái sinh, Quá trình trị liệu vết thương của một linh hồn), ông đã kể là dùng thôi miên chứng thực một nữ ca sĩ người Canada tên là Sherrie Lea Laird 43 tuổi chính là nữ minh tinh huyền thoại Marilyn Monroe tái sinh. Sherrie chẳng những có thể kể được chính xác quá trình qua lại của Marilyn Monroe với tổng thống Kennedy mà còn một số sự tình đời tư của nữ minh tinh này mà rất ít người biết.

Marilyn Monroe (trái) và Sherrie Lea Laird (phải) có vẻ ngoài khá giống nhau. 

 

 4- VÀI KINH NGHIỆM TRONG CÕI CHẾT

 Không phải tất cả mọi người khi chết đều trải qua đầy đủ các cảnh trạng như đoạn văn mô tả điển hình của bác sĩ Moody hoặc như toàn bộ nội dung của Tử thư Tây Tạng đề cập. Đấy là những hiện tượng cơ bản, một người khi chết có thể kinh qua đầy đủ tất cả những cảnh trạng đó hoặc một số nào đó thôi. Theo Tử thư Tây Tạng, nghiệp báo của mỗi người là nguyên nhân của sự sai khác đó. Những trích dẫn sau đây chỉ là phần hết sức khiêm tốn của những tài liệu đuợc công bố.

4a-Kinh nghiệm đường hầm và ánh sáng

 "Ở cuối đường hầm là ánh sáng rực rỡ. Nó có màu cam. Ồ, bác sĩ đã thấy cảnh mặt trời lặn lúc hoàng hôn rồi chứ? Từ ánh sáng ấy nổi lên một màu cam chói lọi với viền vàng ở chung quanh. Dường như đó là ánh sáng ở cuối đường hầm. Tôi không đi hết tới cuối đường hầm". (Đàn ông, 35 tuổi, bị bệnh tim).

 

 4b- Kinh nghiệm về việc gặp đấng Thiêng liêng:

 "Rõ ràng y như rằng Chúa đi đến, đứng đó và đưa tay ra cho tôi. Vâng, ngài đứng đó, nhìn xuống tôi và mọi vật sáng rực lên. Ngài cao lớn, hai tay đưa ra, toàn thân trắng toát một màu, như là ngài mặc một chiếc áo dài màu trắng vậy. Gương mặt ngài đẹp hơn bất cứ khuôn mặt nào mà người ta từng thấy. Gương mặt ấy thật là đẹp đẽ, quả thật là xinh đẹp. Nước da ngài hầu như là sáng ngời lên, không một chút tì vết, tuyệt đối không một chút tì vết. Ngài nhìn xuống tôi, mỉm cười thân ái. (Phụ nữ 55 tuổi, Tin Lành)

 

4c- Kinh nghiệm cận tử đã làm thay đổi quan niệm sống:

 Một phụ nữ, sau khi trải qua NDE, tình nguyện phục vụ tại bệnh viện để an ủi bệnh nhân: "Sau khi chết đi sống lại, tôi đến xin làm việc tại bệnh viện với tư cách tình nguyện. Một trong các cô ở đó là một nhà tâm lý, đang làm cán sự xã hội, có biết về quan niệm sống mới của tôi. Mỗi khi bác sĩ biết rằng bệnh nhân nào đó sắp chết, cô thường được gọi đến vì người ta thấy rằng lúc đó cần có người ở bên cạnh để an ủi họ. Khi cô nghe có ai như thế đang lo âu phiền muộn thì cô lại gọi tôi và cùng với tôi đến chuyện trò với người sắp chết. Điều này không gây phiền hà gì. Nói chuyện về cái chết là điều dễ dàng đối với tôi.Tôi cảm thấy mình đã làm tốt việc đó và đã đem lại niềm an tâm hơn cho mọi người."

 4d- Câu chuyện của bác sĩ Rajiv Parti :

 Bác sĩ Rajiv Parti, trưởng khoa gây mê tại bệnh viện Bakerfield Heart California trải nghiệm thần thức xuất khỏi thân thể trong cuộc phẫu thuật vì ung thư tiền liệt tuyến (prostate cancer) của chính mình. Sau đó, ông bỏ nghề bác sĩ, bán hết tài sản kể cả căn nhà sang trọng và hàng loạt xe hơi giá trị để sống một cuộc sống thanh đạm và đạo hạnh. Ông đã viết một cuốn sách về sự hiện thân mới được gọi là “Dying to wake up: A doctor’s voyage into the afterlife and the wisdom he brought back”.

Trước cuộc trải nghiệm tâm linh, bác sĩ Parti là người vô thần và không tin vào thế giới bên kia sau khi chết. Bây giờ, ông là một người an ủi tinh thần và đoạn từ cuộc sống vật chất đầy ích kỷ trước đây. Ông nói rằng mệnh lệnh của Bề Trên vẫn như in trong đầu mình và ông dùng Chánh pháp để giúp những kẻ khổ đau khác. Đây là bảy chân lý mà bác sĩ Parti tin sau cuộc trải nghiệm tâm linh và lấy sự hiểu biết đó làm sứ mệnh giúp truyền đạt đến người khác:

1-Thần thức tồn tại riêng biệt với thân thể

2-Thế giới vô hình là có thật

3-Nghiệp báo trong tiền kiếp ảnh hưởng đến kiếp hiện tại

4-Tất cả chúng sinh liên lệ với nhau vì có cùng nguồn năng lượng nhưng cấu tạo bởi nhiều hình thức vật chất khác nhau.

5- Có Chư thiên giúp đỡ và dẫn dắt chúng ta

6-Có nhiều cảnh giới tỉnh thức khác nhau

7-Từ bi và Trí tuệ là nguồn sống của vũ trụ, trong đó từ bi là điều tất yếu để sinh ra muôn loài.

 E- CÁI GÌ THEO TA QUA KIẾP SAU?

 1/ Ngụ ngôn về 4 bà vợ : Một phú hộ hấp hối trên giường bệnh, có 4 bà vợ, bèn lần lượt gọi từng bà đến và đề nghị theo ông về thế giới bên kia:

- Bà thứ tư, trẻ đẹp nhất và được ông cưng nhất từ chối và nói là sẽ tiễn ông ra khỏi giường bệnh.

- Bà thứ ba cũng từ chối và nói sẽ tiễn ông ra khỏi nhà.

- Bà thứ hai cũng từ chối và nói sẽ tiễn ông ra nghĩa trang.

- Bà cả, già nhất và xấu nhất nói vì tình nghĩa vợ chồng sẽ chấp thuận theo ông qua thế giới bên kia.

 Vậy xin hỏi rằng 4 bà này là cái gì?

 2/ Đáp án: Ông phú hộ là mỗi người chúng ta đây.

a/ Bà TƯ tượng trưng cho THÂN THỂ của mỗi chúng ta: Ai ai cũng yêu quý thân mình nhất, săn sóc nó bằng cách tẩm bổ cho nó những thức ăn ngon nhất, tắm rửa nó hàng ngày, làm đẹp nó hàng giờ: tô son, trát phấn, sức nước hoa...Khi người ta chết đi thì THÂN XÁC từ giã người đó ngay trên giường bệnh.

b/ Bà BA tượng trưng cho TIỀN CỦA, đó là cái mà ta quý sau thân thể. Ai cũng cố làm sao kiếm được nhiều tiền, càng nhiều càng tốt để tậu nhà, cửa, xe hơi, ruộng vườn... Có dư thì gửi nhà băng, cho vay lãi hoặc hùn vốn kinh doanh để tiền lại đẻ ra tiền, không lúc nào biết đủ, biết dừng cả. Nhưng khi con người chết đi thì TIỀN CỦA đâu có theo người đó qua thế giới bên kia.

c/ Bà HAI tượng trưng cho DANH VỌNG, ĐỊA VỊ, NGƯỜI THÂN. Đó cũng là những điều ai cũng thích, cũng thương nhưng khi người đó chết thì cha mẹ, vợ hoặc chồng, con cháu, bạn bè tiễn ra tới mộ, đọc điếu văn, ca tụng công đức rồi thì mọi người giải tán, danh vọng, địa vị cũng tan biến theo.

d/ Bà CẢ tượng trưng cho NGHIỆP BÁO. Đó là một định luật vô hình, bất biến, không chừa bất cứ ai cả, dựa trên luật Nhân Qủa như gieo hột giống cam ngọt thì gặt được trái cam ngọt, gieo hột giống cam chua thì hái được quả cam chua.

3- Bàn luận: Đa số người đều nghĩ mọi sự trên đời này bền vững, ngay chính bản thân của họ cũng tưởng rằng họ sẽ sống đời đời. Họ như con đà điểu, cố rúc đầu xuống cát và tưởng rằng trốn được người thợ săn nhưng tiếc thay, Thần Chết vẫn không chừa một ai cả…Bài ngụ ngôn trên đây có ý nói rằng ông phú hộ chính là mỗi người chúng ta. Người ta tưởng rằng để được hạnh phúc, phải đạt được 4 muốn (danh, lợi, tình, ăn ngủ) mà không hề nghĩ rằng chúng chỉ phù du,vô thường. Chính vì thế mà khi thấy một điều gì có lợi, về tiền của, địa vị, danh vọng, sắc đẹp... người ta sẵn sàng hại người khác để đạt được tham vọng của mình, bất chấp đạo lý. Nhưng nghiệp báo theo ta như bóng với hình tùy theo những suy nghĩ (ý), lời nói (khẩu), việc làm (thân) của mỗi người nhưng đâu ai thèm để ý (như ông phú hộ đâu thèm để ý đến bà vợ cả già xấu tuy bà ấy lo toan mọi việc cho ông ). Và khi đủ duyên thì nghiệp báo trổ quả ngay trong kiếp này hoặc theo người đó qua kiếp sau.

Tuy nhiên, chúng ta nên nhớ là có nghiệp ác nhưng cũng có nghiệp thiện tùy theo Thân-khẩu- ý của người đó. Vậy hãy sống hiền lương, giúp đỡ mọi người trong khả năng của mình thì chúng ta sẽ tạo nên nghiệp thiện, do đó sẽ hưởng được phước báu ngay trong kiếp này hoặc kiếp sau.

 Nghiệp hàm chứa những hành động của một người trong đời sống hiện tại và những đời sống trước kia. Nghiệp để lại những dấu ấn, tạo tác những hạt mầm “chủng tử” được hàm chứa trong A- lại- da thức. Chính đây là năng lượng, là sức mạnh gọi là nghiệp lực. Nghiệp lực trôi chảy không gián đoạn, diễn biến và biến đổi liên tục, liên hệ với nhau bằng những mối tương quan mật thiết nào đó.

“ Chết” là khi nghiệp lực chuyển biến thành “Thức”, dòng trôi chảy hiện tượng tâm lý sang một hoàn cảnh mới khác phát khởi “sinh” một kiếp khác trong một thân xác mới. Đó là ý nghĩa của Luân Hồi: “Thức” đi đầu thai.

 Phật giáo phủ nhận sự hiện hữu của một linh hồn bất biến, bất tử (tự ngã thường hằng) do Đại ngã (Brahman) tạo ra.

 Không có một linh hồn bất biến tái sinh. Không có một linh hồn bất tử truyền từ kiếp nọ sang kiếp kia. Không có linh hồn đi đầu thai, chỉ có “Thức” đi đầu thai.

Điều này đã được nói nhiều trong hai quyển sách “Vua Milinda vấn Đạo” (Milinda Panda) và “Thanh Tịnh Đạo” (Visuddhi Magga) mà hai Đại Đức Nagasena và Buddhagosa đã dùng nhiều truyện ngụ ngôn để giúp chúng ta lãnh hội dễ dàng định luật tái sinh của Phật Giáo. Chúng sanh mới được sanh ra không thể hoàn toàn là một nhưng cũng không tuyệt đối khác hẳn với chúng sanh vừa chết vì cả hai cùng nằm trong một luồng nghiệp. Chính vì thế mà chúng sanh mới ra đời phải chịu hậu quả của những hành động trong quá khứ của chúng sanh đã chết.

Cuộc phỏng vấn Giáo Sư HAZEL DENNING của Vicki Mackenzie, bà nói:

- Chân lý mà Lama Yeshe và Lama Zopa đã nói cho chúng tôi nghe trong chiếc lều trên sườn núi của Kopan rằng sau khi chết sẽ có một đời sống khác; rằng đời sống kế tiếp như thế nào là do nghiệp báo của bao đời trước quyết định; rằng trạng thái tâm thần khi hấp hối đóng một vai trò quan trọng ảnh hưởng đến đời sau; rằng người ta thường trở lại sống với những người có nghiệp duyên với chúng ta; rằng những đau khổ của đời này là chính chúng ta tạo ra v.v... Không nên oán ai, đổ lỗi cho ai vì chính mình vẫn luôn luôn làm chủ đời mình. - Nói về nghiệp báo thì thật ra cũng khó nói lắm. Trùng trùng duyên khởi, cái nọ xọ cái kia, khó mà giải thích chữ nghiệp một cách rốt ráo. Mọi vật hiện hữu trên đời đều phụ thuộc tương tác lẫn nhau, chúng nương nhau mà sống.

 F- LỢI ÍCH CỦA VIỆC TÌM HIỂU CÁI CHẾT

  1/ Làm chủ được cái chết: Thật vậy, khi mình đã hiểu ý nghĩa của cái chết thì mình có thể đối diện với nó mà không sợ nó nữa. Chỉ có thân xác bị huỷ hoại với thời gian như bộ đồ cũ đã bị rách nát chứ còn phần tinh thần thì không hề chết như ý nghĩa của ngạn ngữ Tây Tạng: “Mọi người đều chết nhưng chẳng ai chết cả”.

 2/ Chuẩn bị tốt đời sống này thì đời sống sau khi chết cũng sẽ tốt: Hãy sống lương thiện, giữ thân- khẩu- ý trong sạch thì nếu chưa thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi thì khi tái sanh chắc chắn sẽ vào 3 đường thiện (Tiên, người, thần).

 3/ Tranh thủ thời gian: Biết rằng mình sẽ phải chết bất kỳ lúc nào, mình sẽ quý trọng thời gian hơn và làm việc hữu ích cho bản thân, cho gia đình và xã hội. Mình nên chuẩn bị cho ngày ra đi của mình ngay bây giờ.

 4/ Bớt tính kiêu căng, ngã mạn: Dù mình có quyền uy thế nào, giàu sang bao nhiêu, thông minh hơn người, mình cũng không thoát khỏi Thần Chết.Thấu rõ lý lẽ này, mình sẽ bớt kiêu căng, ngã mạn mà sống hoà hợp, an vui với mọi người hơn.

 5/Trải rộng Tâm Từ đến tất cả chúng sinh: Mọi chúng ta đều mang bản án tử hình, chỉ khác nhau ngày thi hành án mà thôi.Vậy sao chúng ta lại cứ phải hơn thua nhau, thậm chí sát hại nhau? Thái độ đúng đắn nhất là chúng ta hãy thương nhau, tha thứ cho nhau, đùm bọc lẫn nhau thì Trái Đất này chẳng phải là cõi Tiên trên trần thế hay sao?

V- CÁCH CHUẨN BỊ CHO NGÀY RA ĐI

 Qua những điều trình bày trên đây, chúng ta thấy CẬN TỬ NGHIỆP ( nghĩa là thể dạng tâm thức đúng vào lúc sắp chết) rất quan trọng vì nó quyết định nơi người đó sẽ tái sinh. Một tình trạng bình an, buông xả hoàn toàn khác với một trạng thái đầy tham lam, sân hận. Chính cận tử nghiêp này là kết quả của quá trình sống của người ấy. Tuy nhiên, nó cũng cần sự hỗ trợ, giúp đỡ thêm của các vị tăng ni bằng cách tụng kinh, niệm Phật và những lời an ủi của người thân trong gia đình.

 Dù là người theo tôn giáo nào hay là người vô thần, ra đi nhẹ nhàng không phải là dễ. Chính vì thế, Đức DaLai Lama mới nói trong quyển “SỐNG HẠNH PHÚC, CHẾT BÌNH AN” = Chúng ta phải kiên trì tu tập tâm linh: trau dồi và nuôi dưỡng lòng bi mẫn, tuệ giác, tích cực từ suy nghĩ đến hành động để chuyển đổi cái tâm. Và khi đã đạt được cái tâm tỉnh giác, bất cứ tình huống nào của cuộc sống vô thường này, chúng ta cũng sống an vui và giữ được sự bình thản, không sợ hãi, ngay cả vào thời điểm sắp lìa khỏi thế gian”.

Không nên đợi đến già mới chuẩn bị vì ta có dám chắc là mình sẽ sống đến 90 hay 100 tuổi không? Nghe nói “chuẩn bị cho ngày ra đi” thì có vẻ ghê sợ lắm, như mình phải mất mát thứ gì quan trọng lắm nhưng thật ra, đó chỉ là chấn chỉnh cách sống của chúng ta theo vài nguyên tắc sau đây:

1/ Hãy sống sao để tạo tập quán nghiệp thiện lành hầu được tái sinh trong 3 cõi lành trong kiếp sau.

 2/ Sống chậm lại, luôn luôn ý thức về ý nghĩ, lời nói và việc làm của mình. Tránh gây tổn thương cho người khác bằng cách nhớ bài học ngàn vàng của người xưa: “Phàm làm việc gì, trước hết phải xét kỹ đến hậu quả của nó”.

 3/ Cố gắng tạo nhiều phước đức bằng cách thực hiện các điều thiện như : tránh sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói các lời không trong sạch như nói dối, nói ác, nói tục, nói lời đâm thọc v…v. Nhờ đó, chúng ta sẽ tạo nghiệp tốt khiến cuộc sống hiện tại được hạnh phúc và ngày ra đi được bình an. Có biết bao nhiêu kẻ ác về cuối đời nằm liệt một chỗ, lở loét, hôi thối, ai cũng tránh xa, thật là “muốn sống cũng không được, muốn chết cũng không xong”!

 4/ Hưởng thụ cuộc sống không có gì là xấu cả miễn là không nên quá buông thả, đến nỗi hủy hoại thân thể của mình.Ta thường nên tự đặt câu hỏi “Rồi sao nữa?” để quyết định xem mình có nên sa vào rượu chè, bài bạc, trai gái, hút xách. Thân thể ta sẽ suy sụp bệnh hoạn, gia đình tan nát, con cháu ly tán…Như vậy khi chết, làm sao có thể bình an được?

 5/ Đừng tham đắm vào nhục dục khi còn sống: Chúng ta nên biết là theo quan điểm của Đạo Phật, những ý nghĩ, lời nói và việc làm của mỗi người sẽ được lưu lại trong A–lại-da-thức dưới dạng chủng tử. Khi người đó từ trần, thần thức sẽ mang các chủng tử này theo. Chính vì thế mà người nào khi sống, buông thả, đam mê nhục dục, thích xem những phim ảnh đồi trụy thì khi chết, mang thân trung ấm, người đó hoàn toàn không làm chủ được mình, bị các luồng gió nghiệp đưa đẩy đến các cảnh truy hoan của các loài thú khiến thần thức bị lôi cuốn vào và đầu thai vào các loài như heo, dê, chó v…v.

 

Sự giúp đỡ từ bên ngoài có thể giúp ích cho người hấp hối, với điều kiện là sự giúp đỡ đó phải được thực hiện thật đúng:

 1/ Điều luôn luôn cần lưu ý là người sắp lìa đời sẽ ra đi một mình nên phút hấp hối cần có thân nhân, bè bạn để khỏi cảm thấy bơ vơ lạc lõng vì sự lẻ loi đơn độc là điều bất hạnh nhất của người sắp mất.

 2/ Ta cũng phải cẩn thận trong từng cử chỉ, phải chú ý đến sự dịu dàng trong từng lời nói để cho người hấp hối vững tâm. Không nên tỏ ra bồn chồn hay khóc lóc, không nên nói lớn tiếng, cũng không nên lay người hấp hối. Tiếc thay đó lại là phản ứng rất thường thấy của những người thân thuộc chung quanh. Đôi khi người thân ôm người hấp hối vào lòng và khóc trên người sắp chết khiến người đó bịn rịn, không thể thanh thản ra đi được.

 3/ Khi đang ở cạnh người sắp ra đi thì ta phải tránh tất cả những gì có thể làm cho người ấy bị rối loạn hay dao động tức là tránh tạo ra cho họ một thể dạng tâm thức tiêu cực.

- Nếu biết được họ theo tôn giáo nào thì cứ nhắc đến tín ngưỡng của họ, giúp họ tăng đức tin chứ không nên khuyên họ theo một tín ngưỡng khác.

- Dù trong bất cứ trường hợp nào thì cũng cố gắng giúp người hấp hối yên lòng, nhắc cho họ biết là họ đã sống một cuộc sống trọn vẹn, đã làm được nhiều điều tốt đẹp, mục đích là giúp cho họ ra đi trong an bình và mãn nguyện, dù cho những lời khuyên nhủ có khi chưa đúng với sự thật.

 4/Nếu trong lúc hấp hối mà người sắp ra đi đủ sức gợi lên trong tâm trí họ một lời nguyện cầu đơn giản như sau : "Tôi cầu mong sao cho tất cả chúng sinh đều được hạnh phúc !" hoặc một câu niệm Phật như “Nam mô A Di Đà Phật” thì lời nguyện cầu đó sẽ hướng họ vào một sự tái sinh tốt đẹp. Bất cứ một tâm thức đạo hạnh nào, dù đấy là đức tin hướng vào Chúa, vào Phật hay là một vị thầy tâm linh, thì cũng đều mang lại hiệu quả. Mọi thể dạng tâm thức tích cực đều giúp cho cái chết được thanh thản và hướng vào một sự tái sinh thuận lợi. 

 Những điều vừa được trình bày trên đây (trong việc chuẩn bị cái chết cho chính minh hay cho người thân), có thể là kết quả từ một sự chuẩn bị lâu dài, có nghĩa là từ khi ta còn đang khoẻ mạnh. Không phải chờ đến lúc hấp hối ta mới bắt đầu tập thương yêu người khác.Tình thương và lòng từ bi chỉ có thể hiển hiện lên trong lúc nguy kịch khi mà chúng đã được thấm nhuần từ trước bằng cách tập luyện lâu dài. Nếu không đủ sức tạo cho mình một cuộc sống như thế, thì ít ra cũng cố tránh không để cho tâm thức bị dao động và tràn ngập bởi sự giận dữ hay bám víu trong giây phút hấp hối. Lúc đó, ngay cả một câu niệm Phật, người đó cũng có thể không nhớ nữa. Cách tập luyện vừa trình bày trên đây không nhất thiết là những gì đặc thù dành riêng cho Phật giáo, mà bất cứ ai cũng có thể tập được, không cần phải tin vào một tôn giáo nào cả.

 

Để cho bài soạn được đầy đủ, tôi xin phép bổ sung phần này. Nhưng vì đoạn này khó hiểu đối với những ai chưa hiểu sâu về Phật học nên tôi xin phép chỉ liệt kê ra thôi. Khi nào có đủ duyên, tôi sẽ bàn thêm về phần này. Tôi xin chép lại lời dạy của Đức Phật trong Kinh Đại thừa nói về các diệu trí vô thượng lúc cận tử:

 “ Này Hư Không Tạng Bồ Tát, lúc cận tử, Bồ Tát phải quán các diệu trí lúc cận tử như sau:

1) Vì tất cả các pháp bản thể đều thanh tịnh, nên quán tưởng viên mãn nhất là quán về tánh Không của tất cả các pháp.

2) Vì tất cả các pháp đều có trong tâm Bồ-đề, nên quán tưởng viên mãn nhất là quán tâm Đại Bi.

3) Vì tất cả các pháp bản thể là quang minh, nên quán tưởng viên mãn nhất là quán vô nhất vật trong các pháp.

4) Vì tất cả các pháp đều vô thường, nên quán tưởng viên mãn nhất là quán tâm vô chấp.

5) Vì tâm là nhân của trí huệ bát-nhã, đừng tìm Tánh Phật ở đâu khác.”

VI- VÀI Ý KIẾN BỔ SUNG TRƯỚC KHI KẾT

Soạn bài này, tôi muốn tự nhắc nhở chính mình như lời Đức Phật đã nói rằng: “Trong tất cả những mùa khác nhau để cày cấy, mùa thu là mùa tốt nhất và trong tất cả những loại nhiên liệu để đốt, thì phân bò là tốt nhất còn trong tất cả những loại tỉnh giác khác nhau, sự tỉnh giác về sự vô thường và cái chết thì hữu hiệu nhất”. Trong phạm vi khoa học, cái chết, trừ trường hợp do tai nạn, là một hiện tượng bình thường, cần thiết cho sự sống. Ở mức độ phân tử, cái chết đã được lập trình, theo một hiện tượng được gọi là sự chết của tế bào (apoptosis). Theo lời bác học Francois Jacob (1920-2013), khôi nguyên Nobel Y học năm 1965, cái chết của tế bào là một sự cần thiết đã được lập trình về di truyền học trong trứng với mục đích tiếp nối sự sống và tiến hóa trong vũ trụ. Sự sống và cái chết đi chung với nhau như 2 mặt của cùng một đồng xu. Sinh học tế bào và sinh hoá củng cố cho luận điểm này và cho chúng ta thấy rằng đã có sự sống ăt hẳn sẽ phải có cái chết và ngược lại. Vậy thì quán sát về cái chết không khác gì suy tưởng về sự sống. Chính vì thế mà sự tiếp cận của Phật tử với cái chết cần một sự chuẩn bị, có khi suốt cả cuộc đời. Còn đối những vị nào đã thấy rõ “5 uẩn đều là không” rồi, thấy cái chết, luân hồi, nghiệp báo đều là mộng huyễn thì bài này hoàn toàn không còn giá trị nữa.

 VII- KẾT LUẬN

 Tìm hiểu về cái Chết là một việc làm thật khẩn thiết vì tất cả chúng ta đều phải chết trong khi hầu hết chúng ta không biết gì về cái chết cả. Nếu thật sự Chết là hết thì sự việc quá dễ dàng, chúng ta cứ việc sống cho đã đi rồi khi chết, sẽ có người khác lo giải quyết cái xác của mình: chôn, thiêu, cho kên kên ăn…, mà chẳng cần bận tâm gì cả. Nhưng trên thực tế, đã có nhiều người nhớ về tiền kiếp, có những người tái sanh do ý nguyện độ sinh như những vị Lạt ma Tây Tạng, có những người đã trải qua kinh nghiệm cận tử, có những nhà ngoại cảm có thể tiếp xúc với người chết, có những thiên tài ngay từ bé trong nhiều lãnh vực khác nhau v…v. thì như vậy, sau cái chết, còn có nhiều điều bí ẩn mà ngay cả khoa học cũng chưa giải thích được. Khi Thần Chết đến, ta có thể đem theo được gì như : sắc đẹp, tiền của, danh vọng, người thân…hay chỉ là nghiệp báo. Phần xác trở về với cát bụi, phần hồn tiếp tục tái sanh vào cõi thiện hay ác tuỳ theo nghiệp báo của mỗi người.

 Các Thánh nhân xưa kia không trả lời về sự chết cho người hỏi, theo tôi nghĩ, không phải vì họ không biết mà vì họ không muốn người hỏi cứ thích "hý luận" trong khi không chịu thực hành để có được Thiên nhãn (chưa dám nói đến Tuệ nhãn, Pháp nhãn và Phật nhãn).Vậy là ta phải thiền định thật tinh tấn để nhập thiền rồi mới có thể tiếp xúc được cõi vô hình, mới biết rõ được cái Chết. Giờ đây, chúng ta chỉ có hai con mắt thịt (Nhục nhãn) thì làm sao chúng ta thấy được cõi vô hình để mà kết luận: Có-không? Đúng-sai?... Tôi nghĩ Khoa học cũng khó chứng minh được đời sống sau cái chết và các cõi vô hình nếu vẫn chỉ dùng ngũ quan giới hạn của con người cũng như những lý luận nhị nguyên để phân tích rồi tổng hợp. Đạo Phật có nhiều tông phái, chỉ có Mật tông ( Phật giáo Tây Tạng) phân tích kỹ về cái Chết. Các nhà khảo cổ đã phát hiện quyển BARDO THODOL của Đạo sư Liên Hoa Sanh (Padmasambhava) được viết vào thế kỷ thứ 8 sau CN. Vào thế kỷ 20, các tác giả Pháp đã dịch ra thành quyển “SáchTây tạng về người chết”(Le livre Tibétain des morts). Những điều nói trong này là do đạo sư Tây Tạng ngồi Thiền mà thấy chứ không phải do họ bịa ra, bằng chứng là sau này, các người đã nhập được Thiền đều thấy như vậy. Nhờ đó, chúng ta hiểu rõ về sự chết để chuẩn bị cho chính mình và cho người thân của mình thì tại sao có người lại phủ nhận ?

 Ngoài ra, giờ đây, chúng ta thấy các nhà khoa học đã lao vào nghiên cứu về cái Chết, bắt đầu bằng các hiện tượng “Kinh nghiệm cận tử (Near Death Experience).” cũng như các hiện tượng “tái sanh” như đã trình bày ở trên. Có hiểu được cái Chết, ta mới cần phải chuẩn bị trước cho ngày ra đi của chúng ta và người thân được nhẹ nhàng và tốt đẹp hơn. Việc chuẩn bị này chỉ có lợi chứ không hề có hại.

Để chuẩn bị cho tốt, ta hãy sống sao để tạo tập quán nghiệp thiện lành hầu được tái sinh trong 3 cõi lành trong kiếp sau hoặc ta phải làm thế nào để gợi lên cho ta hoặc người thân một thể dạng tâm thức tích cực (còn gọi là cận tử nghiệp) đúng vào lúc mà ta sắp ra đi. Phương pháp ấy có thể áp dụng cho bất cứ ai, không nhất thiết phải là người theo Đạo Phật mới làm được.

 Sống là chết từng giây, từng phút, là tiến trình đi về cái chết. Cái chết lại khởi đầu cho một cuộc sống mới. Chẳng phải là trong từng giây, từng phút, bao nhiêu tế bào cũ chết đi lại được thay thế bằng bấy nhiêu tế bào mới được sinh ra sao? Nếu một người hiểu được lẽ vô thường của Trời Đất: “Sinh rồi tử, tử rồi lại sinh” thì người đó không còn băn khoăn về cái chết nữa mà chấp nhận cái chết một cách bình thản như nhìn cái lẽ tự nhiên của bốn mùa “Xuân, Hạ,Thu, Đông” vậy!

  

 TÀI LIỆU THAM KHẢO

1/ Tìm hiểu về cái Chết: BS Nguyễn Qúy Khoáng, 2012

2/ Pháp tuyển (Phật Pháp tuyển tập) : Hiển Mật-Đỗ Hữu Trạch, 2011

3/ Tạng thư Sống Chết :Sogyal Rinpoche: Ni sư Trí Hải dịch.

4/ Cái Chết: Đức Dalai Lama giảng tháng 8 năm 2010.

5/ Kinh nghiệm cận tử: Stephanie Lam (Nguồn: The Epoch Times).

6/ Life after life : Raymond Moody.

7/ Recollection of Death, a Medical Investigation : Sabom Michael.

8/ Trở về từ cõi sáng : Nguyên Phong.

9/ Bên kia cửa tử: Charles Leadbeater do Nguyên Phong dịch.

10/Thể dạng trung gian giữa cái Chết và sự Sinh: Dagpo Rimpoché.

11/ Chủ động cái chết để tái sinh trong một kiếp sống tốt đẹp hơn ( Vaincre la mort et vivre une vie meilleure) nhà xuất bản Plon, 2003: Dalai Lama, Hoang Phong chuyển ngữ ra tiếng Việt.

12/ Sự sống sau cái chết (Life after death): Deepak Chopra.

13/Quyền năng của Hiện tiền (The Power of Now): Eckhart Tolle.

14/Luân hồi-tái sinh có thể hiểu được: Hà Yên.

15/Reincarnation, một câu chuyện đầu thai có thật tại Hoa Kỳ: Minh Trí.

16/ Marilyn Monroe returns: Healing of a Soul: Adrian Finkelstein.

17/ Dying to wake up: A doctor’s voyage into the afterlife and the wisdom he brought back: Rajiv Parti.

18/ Sống hạnh phúc và chết bình an: Dalai Lama

19/ Qua cửa chuyển tiếp: Đoàn văn Thông.

20/ Chuẩn bị như thế nào cho cái chết của chính mình?: Đại sư Dagpo Rimpoché, Hoang Phong dịch.

21/ Phù trợ người lâm chung : Đại sư Dagpo Rinpoche, Diệu Hạnh Giao Trinh dịch, Nhà xuất bản Thời Đại.

22/ Ngũ uẩn (the five aggregates): Lê Sỹ Minh Tùng.

23/ Conception of the human psyche, Iceberg metaphor: Sigmund Freud.

24/ Cuộc phỏng vấn Giáo Sư Hazel Denning của Vicki Mackenzie.

25/ Quan niệm về Linh Hồn: BS Ngô thị Qúy Linh và BS Đỗ Hoàng Ý.

26/ Tái sinh qua biệt nghiệp và cộng nghiệp: Tuệ Lạc.

27/ L’approche bouddhiste de la mort (Sự tiếp cận của Đạo Phật với cái chết ): BS Trịnh Đình Hỷ.

28/ De la mort à la vie: ban biên tập của tạp chí 3è millénaire, số 121, tháng 11 năm 2016.

29/ The Buddha and his teachings ( Đức Phật và Phật pháp): Đại Đức Narada, cư sĩ Phạm Kim Khánh dịch ra Việt ngữ.

30/ Trình bày về A-lại-da thức trong Thành Duy Thức: Bảo minh Trang.