In bài này
Chuyên mục: Phật pháp - Bs Khoáng
Lượt xem: 7890

TA LÀ AI ?

(theo quan điểm Vô Ngã của Đạo Phật)

 BS NGUYỄN QUÝ KHOÁNG

 ( đã chỉnh sửa xong ngày 12 tháng 8 năm2013)

DÀN BÀI

1/ Lời mở đầu

2/ Thế nào là NGÃ theo Đạo Phật?

3/ Giáo lý Vô ngã

4/ Vậy Ta là ai?

5/Ý nghĩa của con người trước vũ trụ

6/ Ý nghĩa của Lý vô ngã

7/ Lợi ích của Lý vô ngã

8/ Kết luận

I/ LỜI MỞ ĐẦU

 Từ khi vào Trung học, tôi đã luôn tự hỏi : Mình là ai? Mình từ đâu tới? Mình sẽ đi về đâu?...Khi lên Đại học, trước khi chọn Y Khoa, tôi đã học lớp Triết tại Đại học Văn Khoa và dự định sẽ thi vào Đại học Sư Phạm Saigòn để trở thành giáo sư Triết học. Rồi tôi đậu vào Đại học Y Khoa Saigòn năm 1968 và không thể thực hiện ý định đó nữa. Nhưng tôi vẫn tìm đọc các sách về Triết học và Tôn giáo với mong muốn trả lời được những câu hỏi trên. Năm 1970, quyển “Câu chuyện dòng sông ” của Hermann Hesse đã làm cuộc cách mạng tâm linh đầu tiên trong đời tôi và quyển “Đức Phật và Phật Pháp” của Đại Đức Narada đã khiến tôi chọn Đạo Phật là đường đi và là lẽ sống cho đến bây giờ.Tôi đã dành thời gian cho Đạo Phật nhưng đáng kể nhất là từ khi nghỉ hưu nghĩa là khoảng hơn 4 năm nay (vì trước đó,tôi còn bận học về chuyên môn Y khoa cũng như khi ra trường thì phải làm việc, nghiên cứu khoa học và chuẩn bị bài giảng cho các sinh viên và bác sĩ trẻ). Tôi đã tìm được ở Đạo Phật lời giải cho những thắc mắc của mình hồi còn trẻ và tôi xin trình bày với quý vị sau đây, nhất là về câu hỏi:Ta là ai? Theo tôi, câu hỏi này tối quan trọng cho mọi người vì nếu không biết được mình là ai thì cuộc đời sẽ không có định hướng, không còn ý nghĩa nữa và nhất là về già, sẽ thật vô vị!

II/ THẾ NÀO LÀ “NGÔ THEO ĐẠO PHẬT?

 Ngã hay “cái Ta” gồm thể xác và tinh thần mà Đạo Phật phân tích ra làm 5 uẩn (“Uẩn” nghĩa là sự tập hợp thành một nhóm, còn được gọi là “ấm” nghĩa là che mờ. Đó là vì các yếu tố ở mỗi uẩn, một khi tập hợp lại, tác động lẫn nhau rất khó cho ta phân biệt rõ chính yếu tố nào trong một uẩn là yếu tố chủ động còn yếu tố nào ở một uẩn khác là yếu tố phụ thuộc). Đó là: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Sắc là nói về thân xác nghĩa là phần vật chất, 4 uẩn còn lại thuộc phần tinh thần:

 1/Sắc (body) là phần vật chất mà mắt mình nhìn thấy được, chính là thân thể con người chia ra 3 phần: đầu, mình và tay chân. Sắc do tứ đại “Đất, Nước, Gió, Lửa” tạo thành (Đại có nghĩa là lớn tức là 4 thứ gặp được khắp nơi trong vũ trụ).

-Đất tượng trưng cho thành phần đặc như xương, cơ, các tạng đặc, mô mềm.

-Nước tượng trưng thành phần dịch trong và ngoài tế bào, máu, các dịch tiết…

-Gió tượng trưng cho hơi thở, ợ, ngáp, hắt xì…

-Lửa tượng trưng cho sức nóng trong người (thân nhiệt của chúng ta trung bình là 37 độ C), chính là năng lượng do biến dưỡng thức ăn.Trung bình cơ thể con người cần 1.800 calories/ngày. Người lao động nặng có nhu cầu nhiều hơn, khoảng 5.500 calories/ngày.

 Vậy là về phương diện Y học (cơ thể học và sinh lý học), chúng ta thấy Đức Phật đã nêu lên đầy đủ các đặc tính chính của thân thể con người.

 2/Thọ (sensation) nói về cảm giác “vui, buồn, yêu ghét, mừng, sợ…” phát sinh khi năm giác quan tiếp xúc với sự vật bên ngoài như mắt thấy,tai nghe v…v. hoặc cảm giác “tê, nhức, đau, nóng, lạnh, dễ chịu, sung sướng” khi tiếp xúc với ngoại giới qua da.

 3/Tưởng (perception) là tri giác về những hình ảnh, âm thanh…ta nhớ lại sau khi những gì nghe, thấy đã trôi qua.Ví dụ chiều xem kịch, tối ta tưởng tượng ra trước mắt những cảnh đã diễn ra trên sân khấu. “Tưởng” ấy không là một hình ảnh đơn thuần mà gồm nhiều thứ kết hợp lại như tưởng về màu sắc, ánh sáng, âm thanh…Tưởng tuỳ thuộc xúc và thọ mà sinh khởi nên tri giác về thế giới vật lý hay tâm lý mang nhiều tính chủ quan, sai lầm dẫn đến khổ đau.

4/Hành (mental formations) :Trong khi tưởng uẩn là hình ảnh, màu sắc, âm thanh ta cố tưởng tượng lại sau khi đã thấy, nghe thì hành uẩn là những ý tưởng và hình ảnh tự động nổi lên trong tâm ta hoàn toàn ngoài ý muốn.Ví dụ khi ngồi lặng yên một lát, lắng nghe trong tâm, thấy nó lăng xăng nghĩ đủ thứ. Hoặc những gì xẩy ra trong chiêm bao cũng là tướng trạng của hành uẩn. Có 3 thứ là thân hành, khẩu hành và ý hành.

5/Thức (consciousness): là cái biết của 6 giác quan: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Cái “thức”này là nòng cốt như có nhãn thức thì mắt ta mới thấy,có nhĩ thức thì tai ta mới nghe. Khi nhãn thức không có mặt thì mắt tuy tiếp xúc với sự vật mà không thấy…ví dụ người chết tuy còn đủ giác quan mà không biết gì nữa là vì thức uẩn đã ra khỏi thân xác.

 Bốn uẩn Thọ, Tưởng, Hành, Thức có liên hệ bên trong hợp thành phần tinh thần. Vậy thì “cái gọi là Ta” đâu phải là một cái gì thuần nhất mà là do duyên hợp nghĩa là do nhiều thành phần tạo nên thể xác và tinh thần của con người.

III/ GIÁO LÝ VÔ NGÃ

 Giáo lý này đã được Đức Phật Thích Ca giảng tại vườn Lộc Uyển cho 5 anh em ông Kiều Trần Như sau khi Ngài giảng xong Tứ Diệu đế. Kinh Vô ngã tướng (Anattalakkhana sutta) kết luận bằng một câu ngắn gọn, rất quan trọng:

“CÁI NÀY KHÔNG PHẢI LÀ TA,

 CÁI NÀY KHÔNG PHẢI LÀ CỦA TA,

 CÁI NÀY KHÔNG PHẢI LÀ TỰ NGÃ CỦA TA”

(Để cho dễ hiểu, xin cho phép tôi được chú thích thêm cho chữ “CÁI NÀY”: Đó chính là “Sắc, thọ, tưởng, hành, thức”, “cái thân này”, “cái thân-tâm này”, “ cái ta đây”, “cái tôi đây”. Còn “TỰ NGÔ ám chỉ linh hồn bất biến).

Đức Phật muốn phá bỏ ý niệm sai lầm về bản thể của con người:

 1/ Phá bỏ cái chấp thủ vào 5 uẩn, xem đó là Ta như đang có tấm thân nguyên thuần một khối.

 2/ Phá bỏ cái chấp thủ có một Tự ngã, một linh hồn vô hình bất diệt.Tuy nhiên, Đạo Phật khẳng định là có thần thức (gồm Mạtna thức và Alạida thức), vô hình nhưng không bất diệt ( mà là thay đổi do duyên hợp) và giúp cho sự tái sinh và chuyển nghiệp báo từ đời này qua đời khác.

 VÔ NGÃ ở đây có nghĩa là “KHÔNG PHẢI LÀ TA” (not self) chứ không có nghĩa là “KHÔNG CÓ TA hay KHÔNG CÓ GÌ CẢ” (no self). Đây chỉ là do sự nhìn lầm (thiếu Chánh kiến) như nhìn dây thừng trong bóng tối lại tưởng là con rắn. Khi đèn sáng lên thì rõ ràng là dây thừng chứ không phải “không có gì cả”.

 Học thuyết Vô ngã tướng phân tích cái được gọi theo quy ước là “Người” không khác gì hơn là một quá trình hiện tượng Tâm-Vật lý không có chủ thể.

Chính do khát ái (gồm “hữu ái” là muốn được hiện hữu và “dục ái” là ham muốn lạc thú) mà năm uẩn kết chặt với nhau tạo thành một chúng sinh trôi mãi trong vòng Sinh tử-Luân hồi.

IV/ VẬY TA LÀ AI?

 Theo Đạo Phật, “cái gọi là Ta” chỉ là giả tạm, do duyên hợp mà có, thay đổi thường xuyên theo luật vô thường và khi hết duyên thì sẽ tan rã vì nếu thật là có Ta (Ngã) thì phải có đủ ba yếu tố: đồng nhất, bất biến và có chủ thể.

 1/Vậy “cái gọi là Ta” có đồng nhất không?

 a/Về thể xác, các thành phần đất, nước, gió, lửa chỉ là do vay mượn từ bên ngoài bằng chứng là những thức ăn sau khi vào miệng, sẽ được nghiền nát rồi tiêu hoá, cuối cùng các chất bã được thải ra ngoài. Còn không khí hít vào phổi sau khi đã diễn ra sự trao đổi dưỡng khí với thán khí thì sẽ được thải ra ngoài. Mỗi ngày, ta hít thở 26.000 lần và cần một lượng không khí là 12.000 lít. Rồi cái vòng đó lại tiếp diễn. Vậy có cái gì thật sự là của mình đâu? Đó chỉ là sự vay-trả, trả-vay mà thôi.

 b/Về tinh thần, các ý kiến cho là mình nghĩ ra thật tình có phải của chính mình không hay là chỉ do vay mượn từ nhiều người rồi mình thêm thắt vào. Điều này thấy rất rõ trong các bài giảng, các luận văn.Tuy nhiên, tôi không phủ nhận những nghiên cứu khoa học kỹ thuật có tính tiên phong, những sáng chế làm thay đổi cuộc sống.

 Vậy là về mặt không gian,“cái gọi là Ta” gồm cả thể xác lẫn tinh thần là do nhiều yếu tố hợp lại nên không thể xem là đồng nhất được.

 2/Vậy “cái gọi là Ta” có bất biến không?

 a/Về thân xác, khi gặp mặt người quen hàng ngày, ta thấy không có sự khác biệt. Nhưng nếu gặp lại người thân sau trên chục năm xa cách thì đó lại là chuyện khác. Ta chỉ cần giở quyển “album” gia đình ra xem lại chính mình lúc mới vài tháng tuổi, rồi lúc 20 tuổi, 40 tuổi, 60 tuổi thì ta thấy khác nhau rất nhiều, phải không? Vẫn là mình đấy nhưng sao khác nhau quá, về kích thước, về trọng lượng, về hình dạng…mặc dù còn những nét hao hao.

Vậy trong 4 hình đây, KHOÁNG là ai?

 Nếu bảo là tất cả đều là KHOÁNG thì vô lý vì KHOÁNG chỉ có một người mà thôi. Còn nếu bảo chẳng có ai trong 4 hình này là KHOÁNG thì lại càng sai vì rõ ràng đây là hình chụp một người qua nhiều thời kỳ khác nhau.

Xét về mức vi mô, các tế bào trong cơ thể chúng ta thay đổi từng giờ, từng phút, từng giây tuỳ theo loại. Trong một giây đồng hồ, biết bao tế bào chết đi thì lại có bao nhiêu tế bào được sinh ra. Thân xác của chúng ta thay đổi liên tục. Chỉ sau một tháng là thân xác của chúng ta không còn là thân xác cũ nữa nhưng chúng ta đâu hề biết, chúng ta cứ tưởng nó vẫn vậy. Vật chất không ngừng thay đổi !

 b/Về tinh thần, khi bắt đầu tập ngồi thiền, chúng ta thấy có bao nhiêu suy nghĩ lướt qua trong đầu chúng ta. Thật vậy, có biết bao nhiêu “niệm” (ý nghĩ) hiện lên rồi biến mất trong một giây đồng hồ. Đức Phật còn dùng từ “sát na” để chỉ một đơn vị thời gian rất nhỏ. Các niệm của chúng ta thay đổi từng sát na. Có những ý nghĩ mà ta quyết như “đinh đóng cột” nhưng sau khi tự mình xét lại hoặc bị người khác thuyết phục, ta quay ngoắt lại 180 độ.Vậy thử hỏi cái Ta nó ở đâu?

 Có lúc, tôi ví cái Ta như một dòng sông. Đứng ở một điểm nhìn, ta thấy dòng sông vẫn vậy nhưng nếu quán sát sâu xa thì ta thấy ở điểm đó, không còn là cùng các giọt nước ở trong giây trước so với giây sau.

Cái ta cũng còn có thể được ví như một vòng lửa tạo ra từ cách xoay tròn 360 độ một sợi dây mà ở đầu tận cùng có buộc một cục sỏi được bao bởi một bùi nhùi có tẩm dầu đang cháy. Khi quay thật nhanh, ta có cảm tưởng như có một vòng lửa thực nhưng sự thật không phải vậy. Vì thế, cái ta cũng chỉ như vòng lửa, chỉ là ảo ảnh mà thôi.

Cuối cùng, ta có thể ví cái Ta như một cuộn phim gồm hàng vạn, hàng triệu hình chụp nhưng khi được quay mau thì ta thấy sống động như thật vậy.

 Vậy là về mặt thời gian,“cái gọi là Ta” gồm cả thể xác lẫn tinh thần thay đổi liên tục nên không thể xem là bất biến được.

 3/ Vậy “cái gọi là Ta” có chủ thể không?:

 Nếu nói cái Ta có thực thì ta phải làm chủ nó, ta phải điều khiển nó theo ý muốn của ta. Nhưng thật sự có phải vậy không?

 Nếu ta là chủ của thân xác ta thì ta có thể bảo trái tim ngưng đập một lát không, các quai ruột không co bóp nữa, dòng máu xoay theo hướng khác hoặc tạm ngưng chảy được không?

 Nếu ta là chủ của thân xác ta thì:

 

 Vậy thì cái Ta chính là cái ý thức ( chứ không phải là một thực thể vật chất) về thân và tâm qua tất cả các hành động của thân, khẩu, ý. Chính những hành động này làm con người sống động và được các người chung quanh biết đến và cũng chính những hành động của thân, khẩu, ý tạo thành nghiệp lực chẳng những ảnh hưởng ngay trong kiếp hiện tại mà còn có hậu quả đến việc tái sinh trong tương lai theo định luật bất biến của Sinh tử-Luân hồi.

Tóm lại, cái Ta:

 *chỉ là tập hợp của ngũ uẩn, gồm những chất nạp vào và thải ra giữa bên ngoài với bên trong cơ thể, không hề có một thực thể thuần nhất.

 * thân thể cũng như tinh thần của ta thay đổi liên tục theo thời gian.

 * không hề có một chủ thể.

Vậy cái mà chúng ta gọi là “Tôi” chỉ là cái Ta giả, nó chỉ là tạm có do duyên hợp chứ chúng ta không thể dùng ngôn từ để định nghĩa một cách rõ ràng cái Tôi này.

Tóm lại, để dễ hiểu, ta nên phân biệt 3 “cái ta”:

1/ Thế nào là “cái ta tương đối”? Cái ta tương đối là một danh từ giả lập để chỉ năm uẩn. Mỗi khi năm uẩn hợp lại thì gọi đó là ta (ngã), nó là một danh từ quy ước để xưng hô và chỉ định sự khác biệt giữa từng cá nhân trong cộng đồng. Thí dụ khi đi chợ, bạn nói :"Tôi đi chợ". Cái tôi (ta) này thuộc loại giả lập, vì thực tế có một cái thân này đi chợ chứ không phải cái thân của người khác đi chợ và cái ta được chỉ định trên cái thân này liên quan và tùy thuộc vào thân.

2/ Thế nào là « cái ta ảo tưởng» hay « cái ta giả »? Thí dụ như có ai chửi bạn, bạn sẽ cảm thấy khó chịu, tức tối : "Tại sao nó chửi Tôi?" Chính ngay lúc đó, nếu để ý, bạn sẽ thấy có một cái Tôi (Ta) hiện hữu «hình như » độc lập không ăn nhằm gì đến thân hay tâm cả! Cái Tôi (Ta) đó bị chửi, bị tổn thương chứ không phải cái tâm hay thân bị chửi. Người ta đâu có chửi thân tôi, đâu có chửi tâm tôi, người ta chửi "Tôi" mà!

Cái tôi này chính là « cái ta ảo tưởng », cũng giống như « cái ta tương đối » ở trên, không có tự thể, nhưng phải nhìn sâu mới thấy được. Chính cái Ta này được mọi người nhận lầm là Ngã . Cái Ta này thật ra không có, nó chỉ là một ảo tưởng, một lầm chấp. Vì vô minh nên chúng sinh lầm tưởng cho cái ta giả danh là một cái ta chân thật.

 3/ Thế nào là cái Ta tuyệt đối? Cái Ta tuyệt đối là cái ta tự nó hiện hữu độc lập, có tự thể, không lệ thuộc vào năm uẩn, thường còn, bất biến, nó hiện hữu như là chủ của năm uẩn, điều khiển năm uẩn. Cái ta tuyệt đối này chính Kinh Phật gọi là Chân Tâm, Phật Tánh, Bản lai diện mục. Tóm lại :

1/ « Ta tương đối » dùng trong giao tiếp với người khác.

2/ « Cái ta ảo tưởng hay cái ta giả » mà mọi người tưởng lầm là cái ta thật như trong câu chuyện ngụ ngôn « dê và sư tử » mà tôi sẽ kể ở phần VI. Sư tử con tưởng lầm mình là dê. Chính vì chấp vào cái ta này mà con người bị trôi lăn trong vòng sinh tử luân hồi.

3/ « Cái Ta tuyệt đối » là bộ mặt nguyên thủy mà chúng ta nhận ra khi ngộ Đạo. Chính là lúc sư tử con nhìn vào dòng suối nhận ra mình là sư tử chứ không phải là dê.

 Kinh Phật phủ nhận « cái ta ảo tưởng » chứ không phủ nhận « cái ta tương đối » và « cái Ta tuyệt đối ».

V/ Ý NGHĨA CỦA CON NGƯỜI TRƯỚC VŨ TRỤ

 Khi còn là thanh niên, tôi thường hay ngắm trời ban đêm lúc không có mây. Tôi thấy hằng hà vô số vì sao và tự hỏi mình là gì so với vũ trụ. Tôi suy tư và thấy mình là một sinh vật trên trái đất mà trái đất chỉ là một hành tinh của mặt trời . Mặt trời lại chỉ là một vì sao trong giải Ngân hà nghĩa là Thiên hà của chúng ta trong khi đó, trong vũ trụ có hàng tỉ tỉ thiên hà. Suy ra như vậy thì ta có là gì đâu so với vũ trụ này? Xưa kia, Đức Phật cũng đã nói đếnTam thiên đại thiên thế giới, do đó tôi thích Đạo Phật vì nếu mình giác ngộ như Phật thì mình sẽ hiểu được mọi lẽ huyền vi của vũ trụ.

 

 Vụ nổ Big Bang 14 tỉ năm trước đã sinh ra một vũ trụ hôm nay gồm một tỉ tỉ Thiên hà. Mỗi thiên hà chứa ước chừng nhiều tỉ vì sao, trong đó nhiều triệu vì sao có cấu trúc giống Mặt trời chúng ta, và rất nhiều vì sao đã được quan sát có mang theo một vài hành tinh. Mặt trời trong thiên hà chúng ta nằm ở một vị trí rất vô nghĩa (cách trung tâm Ngân hà khoảng 50 triệu năm ánh sáng). Như vậy theo loại suy, chắc chắn phải có rất nhiều hành tinh như Trái Đất chứa các loài người có ý thức,trí thông minh. Thỉnh thoảng một ngôi sao mang theo một trái đất như hành tinh của chúng ta nổ tung thì nhiều tỉ sinh linh chết cùng một lúc. Rồi trong vũ trụ có vài cảnh hai Thiên hà đâm vào nhau, nghĩa là trong nhiều triệu năm nhiều tỉ sinh linh trong hai Thiên hà đó sẽ liên tục dần dần chết hết. Khoảng một chục tỉ năm nữa, các Thiên hà sẽ co lại, cuối cùng thành một khối vật chất đầy năng lượng trong một vũ trụ băng giá với tất cả các sinh linh biến mất. Như vậy nhiều tỉ tỉ sinh linh được sinh ra với vũ trụ và cũng bị hủy diệt trong vũ trụ không thương tiếc, không mang mã số riêng. Các sinh linh loài người cực kỳ vô nghĩa, nghĩa là cực kỳ vô ngã.

          Về mặt tích cực, vũ trụ thể hiện vô cùng huyền diệu, các sinh linh cũng được cấu trúc, hoạt động vô cùng tinh vi, mầu nhiệm. Con người có thể yếu ớt, xấu xa, nhưng cũng có thể vô cùng hùng mạnh, vô cùng cao cả, với ý thức có thể được trau dồi tới mức cao siêu, có thể nắm bắt được bản chất của vũ trụ mà nó là một thành phần. Và dù với những ưu điểm lớn lao đó, con người vẫn chỉ là vô ngã, không mang bất cứ một mã số riêng nào.

          Đạo Phật được nổi bật ở điểm: ý thức là vô ngã. Ý thức người phàm đầy tham lam, sân hận, mê lầm, dù vẫn có được đến một mức độ: sự không dính mắc, lòng từ bi và trí tuệ. Ý thức phàm liên tục gây nhân và gặt quả trên sân khấu vũ trụ, diễn ra ở vô tận kiếp luân hồi, tràn đầy đau khổ hơn là những mảng hạnh phúc nhỏ nhoi giả tạm. Nếu ý thức tỉnh ngộ, trau dồi tinh luyện qua nhiều vạn kiếp thì sau cùng, đến một ngày hoàn toàn giác ngộ và thoát khỏi vũ trụ luân hồi, để hòa nhập vào thể trong sáng yên tịnh, bất biến gọi là Niết Bàn.

VI/ Ý NGHĨA CỦA LÝ VÔ NGÃ

 Vô ngã là một trong tứ pháp ấn của Phật giáo ( pháp ấn là dấu chỉ điểm lời Đức Phật dạy): Vô ngã- Vô thường -Khổ-Không.

 Đây là một trong các giáo lý căn bản của Đạo Phật và độc nhất vô nhị vì không có tôn giáo nào trên thế giới này lại phủ nhận cái Ta như Đạo Phật cả. Đức Phật muốn phá bỏ cái chấp Ngã của hầu hết chúng sinh vì những lý do sau đây:

 -Mặc dù Chấp ngã nghĩa là tin “cái ta là thật” có một số ưu điểm như nhờ có cái Ngã mà con người mới phấn đấu, xã hội mới tiến bộ. Chính sự cạnh tranh mới thúc đẩy khoa học kỹ thuật luôn đổi mới, kinh tế phát triển, mới đem lại sự tiện nghi vật chất cho con người, mới đem lại sự giàu có cho các quốc gia. Điều này chúng ta không phủ nhận.

-Nhưng cũng chính cái Chấp ngã này đã đem lại bao nhiêu đau khổ, phiền toái cho mỗi chúng ta, cho cả nhân loại. Tại sao vậy?

 * Về cá nhân, nếu ta chấp vào cái Ta nghĩa là tự xem cái Ta có thật, cái Tôi to lớn (vì tự đồng hoá mình với danh xưng, chức vụ, địa vị trong xã hội …) thì nếu ai động chạm tự ái của ta như nói xấu, mắng nhiếc…thì ta sẽ nổi sân lên.

 Chính vì quan niệm rằng ta có một cái tôi thật sự khác biệt với mọi người nên ta muốn (cả ta và chính người thân của ta) hơn người khác về mọi mặt như học giỏi hơn, địa vị cao hơn, giàu có hơn…Chỉ vì lòng tham mà ta bất chấp mọi thủ đoạn để đạt được những điều đó.

 *Về tập thể, vì chấp cái này là ta, cái này là của ta nên có sự kình chống giữa phe này với phe kia, tôn giáo này với tôn giáo kia (thậm chí có tôn giáo mà các tín đồ cùng thờ một Thượng Đế nhưng vì chia 2 phái khác nhau lại giết hại lẫn nhau.Tôi nghĩ Thượng Đế trên trời cũng phải khóc vì sự ngu muội của các tín đồ của mình), tranh chấp giữa quốc gia này với quốc gia kia. Cùng một lúc trên trái đất có sự thừa mứa thực phẩm ở nơi này nhưng lại có sự chết đói ở nơi khác cũng như chiến tranh xẩy ra không dứt, hết ở vùng này thì lại đến vùng khác.

 Giảng lý Vô ngã, Đức Phật muốn phá sự chấp thủ vào cái “chính mình” (cái Ta giả) của con người để chúng ta tránh được đau khổ vì Tham và Sân. “Phá tan sự chấp thủ” vào 5 uẩn chứ không phải là “phá tan 5 uẩn”, xin chớ vội hiểu lầm. Giáo lý Vô Ngã không khuyên con người diệt chính mình bằng cách tự hành xác hay tự tử mà chỉ khuyên con người nên có một cái nhìn đúng đắn (Chánh kiến) về chính mình.

Đề xướng Vô ngã không phải để hư vô hoá con người, xoá bỏ sự có mặt của con người trong cuộc đời, trái lại kết hợp chủ thể với tha nhân, xoá bỏ biên giới cách biệt giữa người với người, trải rộng lòng từ bi đến tất cả chúng sinh. Thế nên, ai dựa vào giáo lý vô ngã để chối bỏ cuộc đời thì người đó mắc sai lầm nghiêm trọng vì Đạo không lìa Đời và người đó chưa thấy rõ được diệu dụng của Đạo Phật.

 Qua “Lý vô ngã” Đức Phật muốn khuyên chúng ta đừng bám víu vào “cái ta giả” mà hãy hướng đến “cái ta thật” để được sống trong hạnh phúc thường còn.

 Vậy có cái ta thật không? Theo Đạo Phật, ai cũng có cái ta thật qua lời tuyên bố bất hủ của Đức Phật: “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”. Đức Phật đã cho mỗi chúng ta biết nguồn gốc đích thực của mình qua câu chuyện ngụ ngôn “Dê và Sư tử” sau đây:

“Có một sư tử cái mang bầu sắp sanh nhưng đói quá nên mon men về làng. Khi đến bờ suối, sư tử mẹ chuyển dạ và sanh ra một chú sư tử con. Nhưng vì kiệt sức và băng huyết nên sư tử mẹ đã chết ngay bên bờ suối. Một chú chăn dê đến nơi phát hiện sự việc bèn tri hô lên. Dân làng đến đem sư tử mẹ đi và cho chú nuôi sư tử con. Sư tử con lớn lên trong bày dê và cứ tưởng mình là dê. Một hôm sư tử chúa đi tìm mồi, đến bên bờ suối uống nước. Chú chăn dê và bày dê sợ quá trốn mất trong khi sư tử con ngơ ngác, kêu:“be, be”. Sư tử đực vừa ngạc nhiên vừa bực mình bèn đến gần sư tử con và nói : “Mày là sư tử chứ không phải là dê !” Sư tử con luôn miệng kêu:“be, be”. Sư tử chúa giận quá ngoạm vào gáy sư tử con rồi lôi sềnh sệch đến bên bờ suối, dí mặt nó sát dòng nước và nói: “Hãy nhìn kỹ lại xem mày là ai?” Sư tử con soi thấy mặt mình và gầm lên một tiếng: Chúa sơn lâm đã hiện hình!”

 Câu chuyện trên đây muốn nói là mỗi chúng ta thuộc dòng dõi Phật nhưng chúng ta cứ tưởng mình là chúng sinh. Chúng ta không hề biết hoặc không dám tin điều này giống như sư tử con cứ tưởng mình là dê cho đến ngày được sư tử chúa cho biết điều đó cũng như Đức Phật chỉ cho chúng ta biết chân giá trị của mình. Đạo Phật còn ví Phật tánh (còn gọi là Chân Tâm, Bản thể Chân Như) như biển cả và mỗi chúng sinh là một gợn sóng. Sóng to hay nhỏ là vì gió thổi mạnh hay yếu cũng như các chúng sinh khác biệt nhau là vì gió “nghiệp”.Vậy khi gió hết thổi thì sóng lại là nước cũng như khi hết nghiệp Tham, sân, si thì chúng sinh lại là Phật.Và khi thấy lại Phật tánh, trở lại với cái ta thật thì chúng ta sẽ sống trong niềm an lạc vĩnh viễn.

 Đa số chúng ta chấp vào Ngã nhưng có một số ít lại chấp vào Vô Ngã. Họ nghĩ rằng Phật nói vạn pháp do duyên hợp nên không có gì là thật cả, chết là hết thì dại gì mình không hưởng thụ bằng mọi cách, kể cả việc giết hại người khác. Đời chỉ như giấc chiêm bao, không có linh hồn, không có nghiệp báo, có gì mà phải sợ. Nhưng họ phải hiểu rằng nếu có nhân “giả” thì cũng có quả “giả” và trong mộng họ vẫn phải trả những quả báo này, họ vẫn phải nếm mùi đau khổ trong cảnh mộng, không chạy đi đâu được cả.

Khi thuyết về lý Vô Ngã, Đức Phật không muốn chúng ta chấp vào Không vì như vậy còn tệ hơn chấp vào Có, mà ngài chỉ muốn chúng ta thấy đúng bản chất của Ngã để đừng bị dính mắc. Khi thấy được bản chất của sự vật là duyên khởi thì ta thấy nó không có tánh chân thật, là có hay là không. Do đó, chúng ta không chấp vào có Ngã và cũng không chấp vào Vô Ngã, sự không chấp này được gọi là Trung Đạo, còn gọi là “Đệ nhất nghĩa Không”.

Trung Đạo nghĩa là “không Có cũng không Không”.Trung Đạo không có nghĩa là tổng hợp giữa cái Có và cái Không, mà là sự siêu việt khỏi thế giới khái niệm. Trung Đạo không có nghĩa là trung gian giữa sự Có-Không, Thường-Đoạn, Sanh-Diệt, Khổ-Vui mà có nghĩa là vượt lên khỏi các cực đoan ấy, ra ngoài vòng tương đối sai biệt để hiển lộ thể Chân Không Diệu hữu, dứt bặt sự suy nghĩ và lời nói.Thực tại vượt thoát bốn ý niệm: Có, Không, Thường, Đoạn. Đây là lý Bất nhị trong kinh Duy Ma Cật. Ý nghĩa siêu việt trong Trung Đạo là thái độ vô chấp, vô trụ, tức là không bị lệ thuộc vào một định kiến nào, không bị đóng khung trong một phạm trù tư tưởng nào.Trung Đạo là làm mà không bị dính mắc vào Có và Không: Cần dùng Ngã để phấn đấu, để cạnh tranh cho khoa học được tiến bộ hơn, cho đời sống được ấm no hơn nhưng không nên bị kẹt vào cái Ngã đó để chỉ nghĩ đến bản thân mình mà nên ứng dụng Vô Ngã để xoá bỏ ranh giới giữa ta và người, để thêm bạn bớt thù, để đem lại hạnh phúc cho mọi người trên thế gian này.

VII/ LỢI ÍCH CỦA VÔ NGÃ

Giáo lý vô ngã là nền tảng, là căn bản của Đạo Phật nên dù theo Phật giáo Nguyên thủy hay Đại thừa, người ta cũng cần phải học và tu tập vô ngã.Thông thường, chúng ta nghĩ mình đã hiểu Lý vô ngã dựa vào cách phân tích một cách lô-gích như trên nhưng thật ra cái hiểu đó chỉ là “cái biết ngoài da” như Tổ Sư Đạt Ma đã nói. Bằng chứng là một thầy tu có tiếng tăm, giảng thao thao bất tuyệt trước các Phật tử nào là: Không chấp ngã, đời như giấc mộng v...v nhưng khi đụng phải danh uy, tình ái, tiền bạc thì vẫn bị dính mắc như thường. Đúng là nói thì dễ nhưng làm thì mới khó! Chính vì thế mà phải thực hành, tu tập cho đến khi Lý Vô ngã nhập tâm vào mình. Muốn vậy, đối với tôi, cách thức tốt nhất là thực hành pháp Tứ niệm xứ-Thiền định-Chánh niệm để tỉnh thức, sống trong Hiện tiền.


Chấp ngã nhiều chừng nào thì khổ đau nhiều chừng ấy. Ngược lại, tu tập vô ngã nhiều chừng nào thì bớt khổ nhiều chừng ấy. Do chấp ngã nên sinh ra đủ thứ phiền não liên quan đến ngã sở (cái của ta) và ngã kiến (ý kiến của ta) :

-Ai đụng vào « ngã sở » như nhà cửa, vợ con, tài sản, quyền lợi của Ta thì Ta nổi sân lên hoặc lo sợ mất. Người tu tập vô ngã không còn chấp tài sản là của Ta thì khi bị mất mát sẽ không đau khổ bằng người chấp ngã.

-Do chấp « ngã kiến », tức là cho ý kiến của Ta lúc nào cũng phải, cũng đúng, nên sinh ra cãi nhau, tranh chấp phải trái, hơn thua, lời qua tiếng lại, tệ hơn nữa là đánh nhau, giết nhau.

Người tu vô ngã trở nên khiêm cung, không ngã mạn, khoe khoang, nên được mọi người thương mến. Người tu vô ngã mới đầu chưa thuần thục còn bị đau khổ trước một lời nói ác độc. Khi tu khá hơn thì ngã chấp tiêu mòn, nếu bị chửi chỉ còn thấy khổ sơ sơ. Cuối cùng khi ngã chấp không còn thì mọi đau khổ đều tan biến. Vì thế Đạo Phật mới nói Vô ngã chính là Niết bàn. 

 Nói về vô thường, vô ngã là nói về chân lý tương đối của thế gian (Tục đế) khi tâm thức con người còn thấy thời gian, không gian là có thật. Đối với Phật hay những vị giác ngộ, đã thấy Chân Lý (Chân đế) rồi thì cả thế gian chỉ là một sự tịch tĩnh, đồng nhất, rỗng không (Chân như), chẳng có pháp gì là Thường hay Vô thường, là Ngã hay Vô ngã, vì cả không gian lẫn thời gian đều do tâm thức con người ảo tưởng tạo ra, quy định ra, chứ chúng vốn chẳng có thật. Phật dạy lý vô thường, vô ngã chỉ là phương tiện (như chiếc bè dùng để qua sông) để giúp chúng sanh đối trị, vượt qua tâm bám víu vào ngã, vào sự thường còn của cuộc sống. Khi chúng sanh tu tập giác ngộ rồi thì tự họ sẽ thấy “vô thường”, “vô ngã” cũng chỉ là một khái niệm ảo, nó không thật có trên thực tế.

 Thượng toạ Thích Thông Huệ có nói: “Thực tại là cái gì vừa biểu hiện vừa ẩn tàng. Biểu hiện đó là duyên sinh, ẩn tàng đó là vô ngã; biểu hiện đó là sự hữu, ẩn tàng đó là sự vô; biểu hiện đó là sự sống, ẩn tàng đó là sự chết. Nếu chỉ nhận một mặt này mà quên mất mặt kia của thực tại, đó là thiên kiến. Người dung thông thấy rằng hai mặt cùng một thể bình đẳng, bất khả phân ly(như sóng và nước).

Cái sai lầm căn bản của khoa học hiện đại là phân ranh thực tại thành những đối thể: năng và sở, chủ và khách, trong và ngoài, người biết và đối tượng biết, người nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu.Tách con người ra khỏi những hiện tượng thiên nhiên là một minh chứng.Vì thấy con người khác với thiên nhiên nên mới dùng khoa học chinh phục thiên nhiên, bắt thiên nhiên chiều theo tánh dục của con người nhằm thoả mãn tham vọng vô bờ bến. Kết quả tất nhiên là thiên nhiên nổi loạn như chúng ta đã chứng kiến trong những năm gần đây.Thật ra, thân năm uẩn cũng là hiện tượng thiên nhiên như mọi hiện tượng thiên nhiên khác. Con người và thiên nhiên là một, là nhất thể bình đẳng. Hãy trân quý thiên nhiên như trân quý bản thân mình, đó là lời kêu gọi tha thiết của các nhà Đạo học Đông phương. Những lời Phật dạy mang tính tuỳ duyên nên chỉ là phương tiện nhất thời, vốn không có thật pháp có thể nương tựa.Tự tính vốn rỗng rang như hư không, vượt ngoài mọi đối đãi nhị biên, tùy duyên mà ứng hiện”.

VIII/ KẾT LUẬN

 Nguyên nhân của mọi khổ đau, phiền não đều do tâm bất giác vô minh tạo ra cái Ta và năm uẩn rồi mắc kẹt vào đó. Tâm cho thân là Ta và những cảm thọ, tưởng nhớ, suy nghĩ, phân biệt là Ta. Nhưng Ta chỉ là một ảo tưởng của tâm. Bởi thế muốn giải thoát cần phải tu học Vô ngã và Chân tâm. 

 Khi nào tâm tỉnh giác trở về bổn tánh, chứng nhập Chân như, thoát khỏi sự chấp ngã thì lúc đó ngã hay vô ngã không còn là vấn đề, vì không còn đối đãi nhị nguyên. Nhưng ngày nào tâm chưa giải thoát, ngày đó ta vẫn cần phải tu học theo thứ lớp, tức là phải diệt trừ sự chấp ngã. Đạo Phật quý ở chỗ thực hành chứ không bàn luận suông về những lý lẽ cao siêu (như Tánh không, Bát nhã, Bất nhị, Pháp thân) trong khi bản ngã, tham, sân, kiêu mạn không trừ. 

Tôi muốn chia sẻ lời giải đáp “Ta là ai” để quý vị đỡ mất thời gian tìm kiếm. Cái Ta tưởng là thật thì nó là giả, còn có một cái Ta thật khác, đó chính là Chân Tâm, là Phật Tánh. Tuy nhiên hiểu biết này mới chỉ là trên tri thức thôi, chúng ta cần phải tinh tấn tu tập để thực chứng thấy lại bản tánh chân thật của mình. Khi đó, mặc dù về kích thước và trọng lượng, chúng ta không là gì so với vũ trụ nhưng chúng ta chính là vũ trụ, là chân lý, không điều gì là không biết (Nhất thiết chủng trí). Tôi xin trích lời của Hoà thượng Thích Thiện Châu thuyết trình tại buổi Hội thảo thứ 23 do Liên Hiệp Thế Giới các Tôn Giáo (Alliance mondiale des religions) tổ chức từ ngày 10 đến 12 tháng 3 năm 1989:

1/ Ta là ai ?

 Ta là những hữu thể được tạo thành bằng những yếu tố tâm-vật lý và bằng nước,thức ăn và không khí ở trái đất, được gọi là người, nhưng không phải là cái ngã có tính chất tự thể và thường hằng.

2/Chúng ta từ đâu đến ?

Chúng ta được sinh ra bởi nghiệp (karma) của chính chúng ta và nhận di sản của cha mẹ chúng ta hay xa hơn, của các tổ tiên đầu tiên của chúng ta từ một thế giới khác đến.

 3/Chúng ta có một mục đích trong đời này không ?

Nếu chúng ta biết xử dụng đời sống quý báu này để giác ngộ và giải thoát thì cuộc sống của chúng ta có mục đích tối thượng.

 4/Chúng ta sẽ về đâu sau khi chết ?

 Đời sống của chúng ta khi tái sinh có hạnh phúc hoặc khổ đau đều tùy thuộc vào những hành động của chúng ta trong cuộc đời này.

Nếu chúng ta đoạn trừ những gốc rễ xấu : tham dục, sân hận, si mê, chúng ta sẽ tự giải thoát khỏi vòng sinh tử -luân hồi, và nói theo ngôn ngữ của cuộc đời, chúng ta nhập vào cõi Cực lạc.

 Đây chỉ là lời kết của một vị thầy tu để chúng ta tham khảo mà thôi.

Tôi nghĩ vấn đề chính là mình cứ việc thực hành những lời Phật dạy theo Pháp môn phù hợp với căn cơ của mình thì sẽ có một ngày, ta sẽ thấy lại con người thật của mình và thấu rõ mọi lẽ huyền vi của vũ trụ.

 Trước khi kết thúc, tôi cầu mong mọi chúng sinh đều được giải thoát khỏi vòng sinh tử-luân hồi và đạt được hạnh phúc thường còn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Kinh Vô ngã tướng (Anattalakkhana sutta) trong “Căn bản học Kinh Phật” của cư sĩ Thiện Nhựt- Huỳnh Hữu Hồng.
  2. Thân Tâm và Ta, bài thuyết trình tại Tổ đình Từ Quang, Montreal,tháng7/2008 của cư sĩ Thiện Nhựt- Huỳnh Hữu Hồng.
  3. Danh từ Phật học thực dụng, Tâm Tuệ Hỷ.
  4. Trung Đạo về Bản Ngã, Thường Hỷ Lê Niên.
  5. Vô ngã là Niết Bàn, HT.Thích Thiên Siêu.
  6. Vô ngã, Thiền sư Sayadaw U Silananda, Tỳ Kheo Pháp Thông dịch.
  7. Tâm và Ta , ĐĐ Thích trí Siêu
  8. Đức Phật và Phật pháp, Đại Đức Narada, Cư sĩ Phạm Kim Khánh dịch.
  9. Phật học tinh hoa, Thu Giang Nguyễn Duy Cần.
  10. Luận về vô thường, Đại đức Thích Trí Minh.
  11. Sự sống và sự chết trong Phật giáo: HT.Thích Thiện Châu
  12. Ý nghĩa của con người trước vũ trụ: BS Nguyễn Hữu Hoàn
  13. Triết học Ấn Độ: GS Lê xuân Khoa
  14. Vô ngã (trong quyển Sứ mệnh của Đạo Phật):TT.Thích Thông Huệ.

 Download