CHÁNH NIỆM VÀ SỨC KHOẺ TINH THẦN

 BS NGUYỄN QUÝ KHOÁNG

 (30 THÁNG 12 NĂM 2012)

DÀN BÀI

I-ĐẠI CƯƠNG

II-ĐỊNH NGHĨA

III-NGUỒN GỐC VÀ SỰ ỨNG DỤNG CỦA CHÁNH NIỆM

IV-TỨ NIỆM XỨ

V-LỢI ÍCH CỦA CHÁNH NIỆM ĐỐI VỚI SỨC KHOẺ TINH THẦN

VI-KẾT LUẬN

I-ĐẠI CƯƠNG

 Chính bản thân chúng ta, ngoại trừ khi có tuổi (thì chúng ta hay quên trước quên sau), khi làm một việc gì thì có lúc, chúng ta không ý thức được việc mình làm. Có rất nhiều người ăn mà không biết mình đang ăn vì trong bữa ăn, miệng nói chuyện, mắt nhìn "ti vi", đầu óc nghĩ chuyện này, chuyện nọ, tay gắp thức ăn mà mắt chẳng nhìn, rồi bỏ vào miệng nhai như một cái máy. Tất cả những hành động đều "vô ý thức", được làm như một cái máy, và ta cho đó là một cái gì rất tự nhiên. Chính cái rất tự nhiên này là nghiệp dẫn dắt ta đó.

 Ngoài ra khi đọc báo và xem tin tức trên mạng hàng ngày, chúng ta không khỏi bàng hoàng vì những tội phạm xẩy ra ngày càng nhiều: Từ những trộm cướp giết người không gớm tay đến những vụ xâm hại tình dục, kể cả đối với trẻ em v…v, tất cả đều do con người không ý thức được việc mình làm, không làm chủ được chính mình.

 Thêm vào đó, sự lo toan hàng ngày cho gia đình và tại công sở cũng như những lo lắng về môi trường, dịch bệnh, an ninh xã hội, tình hình kinh tế - chính trị của đất nước đã khiến chúng ta bị căng thẳng bởi “stress”.

 Với mục đích muốn giảm bớt sự thiếu ý thức, sự mất tự chủ, các “stress” và muốn tìm được sự an lạc và sự tiến bộ về tinh thần, chúng tôi đã soạn bài “CHÁNH NIỆM VÀ SỨC KHOẺ TINH THẦN”để cùng thảo luận với quý vị.

II- ĐỊNH NGHĨA

  • SỨC KHOẺ (Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia và Tổ chức Ytế thế giới) Sức khỏe là trạng thái thoải mái toàn diện về thể chất, tinh thần và xã hội và không phải chỉ bao gồm có tình trạng không có bệnh hay thương tật .

Sức khỏe tinh thần là một khái niệm ám chỉ tình trạng tâm thần và cảm xúc tốt của mỗi cá nhân. Theo tổ chức y tế thế giới, không có định nghĩa chính thức cho sức khỏe tinh thần. Có một cách để nhận xét sức khỏe tinh thần là để ý xem một người thể hiện chức năng của mình thành công tới mức nào. Cảm thấy có đủ khả năng tự tin, có thể đối mặt với những mức tình trạng căng thẳng trên mức bình thường, luôn giữ được các mối quan hệ một cách thoải mái, có một cuộc sống độc lập và dễ hồi phục sau những tình huống khó khăn... đều được coi là các dấu hiệu của một sức khỏe tinh thần.

Sức khoẻ tinh thần còn được định nghĩa bằng sự kết hợp hài hoà giữa 3 yếu tố: IQ,EQ và SQ:

IQ=Intelligence Quotient ( là chỉ số thông minh Trí tuệ ) nói lên sự thông minh trong học vấn, nghề nghiệp và mức thu nhập.Trung bình, chỉ số IQ là 100 nhưng 95% dân số nằm trong khoảng 70 đến 130%.

EQ = Emotional Quotient (là chỉ số thông minh cảm xúc) nói lên khả năng nhận biết, hiểu được, biết tạo ra và biết quản lý cảm xúc của mình và của người khác.

SQ = Spiritual Quotient (là chỉ số thông minh tâm linh) nói lên tâm từ bi, sự sáng tạo, sự tỉnh thức, lòng tự trọng, sự cảm thông và lòng biết ơn.

B-CHÁNH NIỆM

 1/NIỆM còn được gọi là SATI hay MINDFULNESS có 2 nghĩa:

 -a/ Niệm là tư duy suy nghĩ.

 -b/ Niệm là biết mọi vật (vật chất và tinh thần) đang xảy ra xung quanh chúng ta.

Vậy biết niệm nào là đúng, niệm nào là sai?

 -a/ Niệm đúng là tư duy suy nghĩ những điều thiện.

 Niệm sai là tư duy suy nghĩ những điều ác.

 -b/ Niệm đúng là biết mọi vật xung quanh chúng ta mà không bị lôi cuốn theo vật đó.

 Niệm sai là biết mọi vật xung quanh chúng ta mà bị lôi cuốn theo vật đó .

 2/CHÁNH NIỆM còn được gọi là SAMMA SATI

Chánh niệm là một niệm khởi lên từ trong tâm, nó chính là một thành phần của tâm, để soi sáng tâm, có nhiệm vụ canh chừng tâm như một viên cảnh sát do chính tâm tự đặt ra để coi giữ chính mình.

 Nó chỉ nhìn tâm, chẳng riêng một đối tượng nào đặc biệt, nó quan sát sự biến chuyển của tâm, tuyệt nhiên không can dự vào các sự biến chuyển của tâm trong lúc đó. Nhưng chánh niệm đồng thời cũng là một niệm chân chánh (chính vì nó đúng đắn, nên nó mới được gọi là một chánh niệm). Sự quan sát của nó đưa đến sự phán đoán về các biến chuyển của tâm đã, đang và sẽ xảy ra, có tánh cách chân chánh hay không. Chánh niệm là sự thuần chú tâm đến những gì đang xẩy ra trong hiện tại. Đó chính là sự tỉnh giác hiểu biểt rõ ràng rằng các cảm xúc, tình cảm, tâm hay pháp là thiện hay bất thiện để giúp chúng ta chuyển hóa.

III- NGUỒN GỐC VÀ SỰ ỨNG DỤNG CỦA CHÁNH NIỆM

 Chánh niệm là một trong 8 phần của Bát Chánh Đạo mà Bát Chánh Đạo thuộc phần Đạo đế trong Tứ Diệu đế. Đây là bài Kinh đầu tiên Đức Phật thuyết giảng cho 5 anh em ông KiềuTrần Như sau khi Ngài thành Đạo cách đây trên 2500 năm.

Chánh Niệm (Sati, Mindfulness) càng ngày càng được phổ biến sâu rộng hơn tại các xứ Âu Mỹ. Hiện nay trong các nước này có khoảng hơn hai trăm chương trình dạy Chánh Niệm để giảm căng thẳng tại các trung tâm y khoa hoặc ở các đại học. Các chương trình này không có tính cách tôn giáo, mặc dù Chánh Niệm xuất phát từ Phật giáo. Chánh Niệm cũng được dạy cho các cầu thủ và lực sĩ để họ đuợc kết quả khả quan hơn. Ngoài ra, có những đợt dạy Chánh niệm tại các nhà tù ở Ấn Độ, Hoa Kỳ v…v để giúp phạm nhân trở về đời sống lương thiện sau khi được thả ra.

Đã có hàng trăm bài khảo cứu khoa học cho thấy những lợi ích mà Thiền Định và Chánh Niệm đem đến cho các bệnh tâm thần hoặc thể xác như chứng đau kinh niên, căng thẳng (stress), trầm cảm (depression), lo sợ (anxiety), bệnh da vẩy nến (psoriasis) và cả cho bệnh ung thư v.v…

 Chánh Niệm được xây dựng trên bốn nền tảng được gọi là bốn lãnh vực chánh niệm. Bốn lãnh vực này (Tứ niệm xứ) là: thân, thọ, tâm và pháp (đối tượng tâm). Thân gồm có hơi thở, tư thế, động tác và cảm giác trong cơ thể thuộc về tứ đại: đất (cứng hay nặng), nước (lỏng hay gắn bó), gió (chuyển động, căng thẳng, áp suất) và lửa (nóng hoặc lạnh). Thọ gồm cảm nghiệm dễ chịu, khó chịu hoặc trung hoà. Tâm gồm ý nghĩ, cảm xúc và ý thức (cái “biết”). Pháp gồm tất cả các đối tượng khác, thường là thấy, nghe, ngửi, nếm và xúc giác.

 Đức Phật có dạy :"Phương pháp duy nhất để tiến tới tư cách hoàn toàn trong sạch và để vượt qua khỏi mọi ưu phiền, chấm dứt niềm đau khổ và mở đường chân chính đi đến Đạo quả Niết Bàn, phương pháp đó nằm trong 4 niệm tưởng căn bản:Thân, thọ, tâm, pháp (Tứ niệm xứ)".

 Đại Đức Narada có giải thích trong quyển Đức Phật và Phật pháp:

"Chánh niệm là liên tục chú tâm đến niệm thân, niệm thọ, niệm tâm và niệm Pháp. Sự suy nghĩ về 4 đề mục trên có khuynh hướng diệt bốn quan niệm sai lầm phổ thông trong đời sống là:

-Ưa thích cái không đáng được ưa thích,

-Thấy đau khổ là hạnh phúc,

-Xem vô thường là trường tồn bất biến,

-Xem vô ngã là linh hồn vĩnh cửu".

Chánh Niệm chỉ để ý tới thực tại mà không quan tâm đến hình thức và quan niệm. Ví dụ như “lưng tôi đau” là một quan niệm mà Chánh Niệm chỉ nhận thức một cách đơn giản là cứng/căng/nóng v.v… hoặc chỉ là “sự khó chịu” mà không có cái “tôi “ trong đó.

Chánh Niệm không những có thể được thực tập một cách chính thức bằng cách thiền tọa hoặc thiền hành, mà cũng được áp dụng không chính thức trong mọi hoạt động trong ngày.

Chánh niệm cho ta thấy thực chất của mọi hiện tượng. Nó giúp ta hành động một cách sáng suốt thay vì phản ứng trong vô minh, do đó cuộc sống ta trở nên bớt căng thẳng và thêm an lạc.

Khi thực hành, bạn nên có thái độ thích hợp: nên thư thả, không có ý mong cầu điều gì sẽ xẩy ra, tôn trọng mọi đối tượng chánh niệm ngang nhau, dù chúng là dễ chịu hay khó chịu, tốt hay xấu. Hãy bỏ đi mọi ý nghĩ về quá khứ hay tương lai mà chỉ quan tâm đến hiện tại. Sự cố gắng trong hành thiền là trì chí một cách thoải mái, một sự tò mò thích thú liên tục thay vì cố gắng thái quá hay căng thẳng.

Sự chú tâm cần có ba thiện căn đi kèm. Đó là vô tham (bố thí), vô sân (tâm từ), và vô si hay trí tuệ. Điều này có nghĩa rằng khi bạn chú tâm tới một điều gì bạn phải luôn luôn cố gắng chú tâm không có tham, sân, si, mà với tư duy về bố thí, từ ái và trí tuệ. Còn tham, sân, và si là ba bất thiện căn. Đừng để cho tâm bạn bị tác động bởi các bất thiện căn này khi bạn chú tâm vào một việc gì. Hãy để cho tư duy vô tham, tâm từ và trí tuệ ngự trị tâm bạn trong lúc chú tâm vào bất cứ một điều gì.

  Tôi còn được nghe một định nghĩa về Chánh niệm của ĐĐ Thích Trí Siêu mà tôi rất thích. Đó là "đưa tâm về với thân", nghĩa là mình không để ý nghĩ của mình lang thang mà phải đưa nó trở về giây phút hiện tại,về con người của ta lúc này đây như vậy có nghĩa là ta tỉnh thức. 

Chính vì sự quan trọng của chánh niệm nên trong các chùa, các tăng ni khi mới xuất gia đều được dạy phải luôn luôn ý thức mọi hành động, lời nói và ý nghĩ trong từng giây phút. Do đó, khi vào một số chùa, chúng ta có thể thấy ở mọi nơi:trong thư viện, trong nhà ăn, trong nhà vệ sinh...có dán trên tường những câu thơ nhắc nhở mọi người hãy giữ chánh niệm khi làm việc gì đó và hồi hướng cho các chúng sinh nữa.”

“Ăn cơm nơi tích môn
Nhai đều như nhịp thở
Nhiệm mầu ta nuôi nhau
Từ bi nguyền cứu độ”.

hoặcGiải này buộc, nút này cài,

         Thiện tâm gìn giữ đêm ngày chẳng lơi

IV-TỨ NIỆM XỨ

Pháp Niệm Xứ có bốn phần, đó là tinh chuyên chú niệm vào:

1/ Thân gọi là Niệm thân.
2/ Thọ hay cảm giác gọi là Niệm Thọ.
3/ Tâm gọi là Niệm Tâm.
4/ Pháp là những đối tượng của Tâm gọi là Niệm Pháp.

1) Niệm thân: Hành giả quán niệm thân thể nơi thân thể. Đó có nghĩa là ngay nơi thân thể, hành giả quán niệm về thân thể, chứ không phải nương theo nơi một cảm giác hay ý tưởng mà quán niệm về thân thể. Quán niệm về thân thể là quán sát và ghi nhận tất cả những gì liên quan và đang xảy ra nơi thân thể.

Quán niệm về thân thể gồm có: hơi thở vô-ra, bốn oai nghi (đi, đứng, nằm, ngồi), các động tác thông thường, các bộ phận ở trong thân thể, tứ đại và chín giai đoạn tan rã của thân thể.

Trong pháp niệm thân, đặc biệt là phần niệm hơi thở vô-ra: Hành giả ngồi xếp bằng thoải mái, đặt hết tâm ý vào sự theo dõi và ghi nhận hơi thở vào, hơi thở ra. Khi hít vào một hơi dài, hành giả biết mình đang hít vào một hơi dài; khi thở ra một hơi dài, hành giả biết mình đang thở ra một hơi dài... Ðây là một phương pháp hành thiền rất phổ thông, vì nó có thể thích hợp cho mọi người, để lắng tâm, cũng như để gom tâm an trụ. Chính Đức Phật xưa kia đã tận lực hành trì nên Ngài chứng đạo quả vô thượng Bồ Ðề.

2) Niệm thọ hay cảm giác: Hành giả quán niệm cảm giác nơi cảm giác, có nghĩa là chú tâm ghi nhận "một cách khách quan" những cảm giác hay cảm thọ của mình: vui sướng (lạc thọ), đau khổ (khổ thọ), hoặc không vui sướng cũng không đau khổ (xả thọ), xem chúng khởi lên ra sao và biến mất như thế nào. Thí dụ khi có một cảm giác vui, hành giả liền biết và ghi nhận: "có một cảm giác vui", và như thế hành giả hay biết các cảm thọ khác và chứng nghiệm một cách tỉnh giác các cảm giác ấy theo đúng thực tế, đúng như thật sự nó là như thế ấy.

Thường lệ, người ta hay thất vọng khi chứng nghiệm một thọ khổ và phấn khởi vui sướng khi thọ lạc. Công trình tu tập niệm thọ giúp cho hành giả chứng nghiệm tất cả cảm giác một cách khách quan, với tâm xả (bình thản) và tránh cho con người khỏi bị cảm giác của mình chi phối, khỏi phải làm nô lệ hay lệ thuộc nơi cảm giác.

3) Niệm tâm hay những hoạt động của Tâm: Trong khi hành thiền, nếu có những ý nghĩ hay tư tưởng phát sanh thì hành giả phải liền ý thức và ghi nhận chúng. Những tư tưởng ở đây có thể là tốt, là xấu, thiện hay bất thiện. Hành giả quán sát, theo dõi, nhìn cả hai mà không luyến ái hay bất mãn. Phương pháp quán sát tâm mình một cách khách quan giúp cho hành giả thấu đạt bản chất và hoạt động thật sự của tâm. Những ai thường xuyên niệm tâm sẽ học được phương cách kiểm soát và điều khiển tâm mình.

4) Niệm Pháp hay đối tượng tâm thức. Trong phần này hành giả quán niệm về:

a/Năm hiện tượng ngăn che: tham dục, sân hận, hôn trầm, loạn tưởng, nghi hoặc.

b/Năm nhóm tập hợp hay ngũ uẩn : sắc, thọ, tưởng, hành, thức.

c/ Sáu giác quan và sáu loại đối tượng hay lục căn và lục trần : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý và hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, xúc chạm, tư tưởng .

d/ Bảy yếu tố của sự ngộ đạo còn gọi là thất giác chi: niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định, xả.

e/ Bốn sự thật cao quý(Tứ diệu đế) : khổ đau, nguyên nhân đưa đến khổ đau, sự chấm dứt khổ đau, và con đường dẫn đến sự chấm dứt khổ đau.

Cuối cùng trong Kinh nói rằng người nào thực hành bốn phép quán niệm trên, người ấy có thể có khả năng đạt được quả vị chánh trí ngay ở đây và trong kiếp này, hoặc nếu còn dư báo thì cũng đạt được quả vị không còn trở lại.

Ðặc biệt trong Kinh này, được lập đi lập lại câu: "Vị ấy (hành giả) sống tự do và không bám víu vào một thứ gì trong thế gian". "Tự do" ở đây có nghĩa là thoát ra khỏi ái dục và tà kiến cùng tất cả sự ràng buộc của danh sắc, một bản ngã thường còn hay một cái "Ta" vĩnh cửu.

Cũng cần nhấn mạnh là Pháp Tứ Niệm Xứ phải được thực hành một cách khách quan, có nghĩa là hành giả chỉ quán sát suông mà không nên dính mắc vào đề mục, không thấy mình liên hệ với đề mục. Khi ấy hành giả mới có thể nhìn thấy thực tướng của sự vật, thấy sự vật đúng như chúng là, chớ không phải thấy phớt bên ngoài.

Cần nhớ là trong tất cả bốn lãnh vực quán niệm (thân, thọ, tâm, pháp) hành giả phải lấy chánh niệm làm đầu, và chỉ giữ chánh niệm mà thôi, có nghĩa là giác tỉnh quan sát và ghi nhận một cách khách quan. Khi bắt đầu thực hành, hành giả sẽ thấy bị xâm chiếm mạnh mẽ bởi thất niệm, hôn trầm (trạng thái mơ mơ màng màng) và loạn tưởng (những ý nghĩ khởi lên ào ào, liên tục lôi kéo ta theo).

Những người nào có thiện chí và ý thức được là từ xưa đến nay mình đã làm không biết bao nhiêu hành động "vô ý thức" thì hãy bắt đầu từ bây giờ trở về làm chủ lại tất cả những hành động cũng như ý nghĩ của mình, hãy tập sống giác tỉnh như Đức Phật.

Ban đầu thực tập chánh niệm, hành giả sẽ nhận thấy có rất nhiều động tác bị quên niệm, nhưng với sự kiên nhẫn và tinh tấn, dần dần những động tác bị quên niệm đó sẽ bớt lần.

Lâu lâu hành giả có thể nhắc nhở mình bằng cách tự hỏi:

- Thân bây giờ đang làm gì, ở trong tư thế nào?

- Có cảm giác gì không?

- Tâm đang nghĩ gì?

- Có nghe thấy gì không?

Cứ như vậy, trong lúc ngồi cũng như khi đi, đứng, tiếp xúc, hành giả phải luôn luôn nhớ niệm. Ðó gọi là chánh niệm.

Vì thế, hành thiền này không cố định ở ngồi mà trong tất cả các thời khắc, đi, đứng, nằm, hành giả đều có thể tu tập được.

 Có hành giả sau một thời gian tu tập quán niệm hơi thở, dần đà thân tâm trở nên yên tịnh, rồi cảm thấy an lạc và trụ ở đó, quên đi việc niệm và ghi nhận. Ðó là hành giả đang đi vào Thiền Ðịnh hay Chỉ (Samatha). Hơn 90% người tu thiền, sau khi điều phục được hôn trầm và loạn tưởng đều rơi vào một trạng thái an lạc, rồi cố gắng kéo dài sự nhập định (từ hai ba tiếng đồng hồ cho tới một ngày hoặc hơn nữa) để hưởng an lạc. Khi đến trạng thái an lạc này, cần phải đi tìm Thầy hoặc thiện tri thức, trình chỗ sơ đắc của mình để được chỉ dẫn thêm.

Tứ Niệm Xứ thuộc về Thiền Tuệ hay Thiền Minh Sát (Vipassanà-Bhàvanà). Chỉ có Thiền Tuệ mới làm phát sinh trí tuệ, giúp cho hành giả thấy rõ được thực tướng của vạn hữu, diệt trừ tận gốc của vô minh, đưa đến giải thoát. Còn Thiền Ðịnh (Samatha) chỉ đưa hành giả đến những cơn định (Samàdhi) trong đó hành giả hưởng sự an lạc nhất thời, không tạo thêm nghiệp mới, nhưng trí huệ không phát triển, và những phiền não gốc vẫn còn nguyên chưa diệt trừ, do đó không thể đưa đến giải thoát.

V-LỢI ÍCH CỦA CHÁNH NIỆM CHO SỨC KHOẺ TINH THẦN

A-Về Thông minh trí tuệ: Nhờ sự chú tâm vào mỗi việc riêng rẽ nên hành giả có khả năng tập trung cao độ trong việc học, việc nghiên cứu, sáng kiến cải tiến…

B-Về Thông minh cảm xúc: hành giả có khả năng nhận biết, hiểu được, biết tạo ra và biết quản lý cảm xúc của mình và của người khác. Nhờ đó, người đó sẽ được nhiều người tin tưởng, mến yêu và thành công trong sự nghiệp trên đời này.

C-Về Thông minh Tâm linh: Chánh niệm có nghĩa là biết được, ý thức được những gì đang diễn ra ngay bây giờ và ở đây, ngay trong giây phút hiện tại. Và khi ta sống với “cái biết”, với “cái ý thức” đó một cách thường trực thì cuộc đời ta trở nên đẹp hơn, ý nghĩa hơn. Nhờ Chánh niệm, ta sống với Thân-Khẩu-Ý trong sạch.

Chánh niệm là bước đầu của Trí Huệ, chiếu sáng để vẹt được mọi sự bao-phủ che mờ của vô minh ra khỏi tâm. Nó vạch trần ra những điều bất thiện. Như thế, chánh niệm là ngọn đuốc chỉ rõ con đường lành để noi theo trong sự tu tập theo đúng Chánh-Pháp. Chánh-niệm được xem như một vị thầy ngự trị sẵn trong tâm, mà người tu hành, nếu biết nghe theo, sẽ được dìu dắt, khuyên nhủ để vững bước đến mục tiêu giác ngộ và giải thoát. Nói cách khác, chánh niệm là một yếu tố quan trọng của Phật tánh, cái khả năng sẵn có của mọi chúng sanh để tu tập cho đến ngày thành Phật.

VI- KẾT LUẬN

 Tất cả những gì chúng ta tạo tác (bằng lời nói, hành động hay tư duy) cũng đều ảnh hưởng đến người khác. Vì vậy cho nên, chúng ta phải học cách sống trong tỉnh thức, trong chánh niệm để có thể tiếp xúc với năng lượng bình an nơi tự thân mình. Sự bình an trong thân tâm thế giới khởi nguồn từ đâu nếu không phải là từ sự bình an trong thân tâm của mỗi cá thể. Nếu mọi người đều sống trong chánh niệm, trong tỉnh thức thì tất cả chúng ta sẽ đều hưởng được lợi ích, chẳng phải “Tâm bình thì thế giới bình”sao?

 Xin mời quý vị xem một chuyện vui trước khi kết thúc bài này:

Trong buổi thuyết giảng Vi-Diệu-Pháp ở chùa tại Washington, vị nữ thiền sư Tâm Tâm có kể một câu chuyện vui cho các Phật tử nghe. Có một người đệ tử xuất gia được hai năm, một hôm qùy bạch vị Sư-phụ rằng: “Bạch Thầy, con xin Thầy cho phép con trở về sống với gia đình, vì con thấy việc tu hành quá khó khăn, khắc khổ, con theo chẳng nổi nữa.”

Vị Sư phụ liền hỏi: “Trước kia, con làm nghề gì?”

- Bạch Thầy, chẳng dám nói dối Thầy, trước kia con làm nghề ăn trộm.

- Thế thì đi tu cũng hợp với con đấy!

- Bạch Thầy, Thầy nói sao, con không hiểu.

-Này con, nghe Thầy hỏi. Khi đi ăn trộm, con làm cách nào ?

-Bạch Thầy, trước khi ra tay, con phải cố gắng rình xem người chủ nhà cất tiền bạc ở đâu, lúc nào anh ta ngủ say rồi con mới khoét vách vào nhà trộm của.

-Thế à ! Việc đi tu cũng vậy thôi. Con cứ rình mò xem tâm của con lúc nào nó muốn làm điều quấy, chận lại, đừng cho việc ác khởi lên. Con cứ rình mò như thế, ngày này qua ngày khác, chẳng buông lơi, đó chính là con đang tu đó!

Ý-nghĩa của câu chuyện vui là gì ? Đó là vị Sư phụ đã đem ví việc rình mò của tên trộm với việc theo dõi tâm, canh chừng tâm khi có ý nghĩ bất thiện khởi lên để chận đứng chúng lại. Nếu đem sự cố gắng của tên trộm đang rình mò chủ nhà mà áp dụng lên cho chánh niệm biết theo dõi tâm, kiểm soát tâm, thì công việc tu hành cũng không quá khó, quá khổ đến nỗi phải bỏ cuộc nửa chừng.

 TÀI LIỆU THAM KHẢO

1/ Đức Phật và Phật Pháp, ĐĐ Narada

2/ Chánh Niệm Tỉnh giác, Ni sư Ayya Khema

3/ Từ điển Phật học Hán-Việt, Đoàn Trung Còn

4/ Thực tập Chánh niệm để an lành, BS Hùynh văn Thanh

5/ Pháp hành minh sát thực tiễn, Bhante Henepola Gunaratama.

6/ Chánh niệm,Thiện Nhựt –Huỳnh hữu Hồng

7/ Chánh niệm và Tỉnh thức,HT.Thích Nhất Hạnh.

8/ Tứ niệm xứ, ĐĐ. Thích Trí Siêu.

Download